Xạ Viên quê ở quận Hữu Phù Phong, Tam Phụ, Tư Lệ Hiệu úy bộ.[a] Xạ Viên vốn mang họ Tạ, cùng gốc với họ Tạ ở quận Bắc Địa. Tổ tiên Tạ Phục (謝服) làm tướng quân ra trận, thiên tử cho rằng tên Tạ Phục không đẹp,[b] cho sửa tên thành Xạ Phục (射服). Con cháu về sau lấy Xạ làm họ.[2]
Nhà họ Xạ với nhà Hoàng Phủ vốn là thế giao. Anh em Xạ Kiên thời trẻ đều có thanh danh. Bởi thế nên Xạ Viên được danh tướng Hoàng Phủ Tung đem con gái cho.[2]
Cuộc đời
Khi Hán Hiến đế mới lên ngôi, đất Tam Phụ gặp phải cảnh chiến loạn, xảy ra nạn đói. Khoảng sau 194, anh trai Xạ Kiên từ quan, mang theo Xạ Viên chạy vào đất Thục tị nạn. Xạ Kiên được Lưu Chương phong chức Trưởng sử, còn Xạ Viên không thấy ghi chép.[2]
Năm 214, Lưu Bị kiểm soát Ích Châu, lấy Xạ Viên làm Nghị tào, Tòng sự Trung lang, Quân nghị Trung lang tướng[c].[2]
^Chữ tạ (謝), có nghĩa là lui, là tạ lỗi; chữ phục (服), có nghĩa là chịu phục, là phục tùng. Tạ Phục cũng có nghĩa là thua trận chịu phục người khác.[1]
^Nghị tào (議曹) là chức quan phụ tá cho châu quận. Tòng sự Trung lang (從事中郎) là chức quan dưới quyền Quang lộc huân, làm hộ vệ cho Hoàng đế.
Chú thích
^Bùi Thông, tr. 41Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFBùi_Thông (trợ giúp)