Trần Thọ từng làm quan cho nhà Thục Hán, sau khi Thục Hán diệt vong, ông đến Lạc Dương làm quan cho nhà Tây Tấn. Trần Thọ đã căn cứ vào các sử liệu cơ bản như Ngụy thư của Vương Thẩm, Ngụy lược của Ngư Hoạ, Ngô thư của Vi Chiêu... để viết Tam quốc chí[1], thuật lại lịch sử Trung Quốc từ khởi nghĩa Khăn Vàng vào cuối thời Đông Hán đến khi Tây Tấn thống nhất Trung Quốc, tức từ năm Trung Bình thứ nhất đời Hán Linh Đế (184) đến năm Thái Khang thứ nhất đời Tấn Vũ Đế (280). Tam quốc chí được chia làm 4 phần gồm 66 quyển: Ngụy quốc chí 30 quyển, Thục quốc chí 15 quyển, Ngô quốc chí 20 quyển, ngoài ra còn có 1 quyển Tự lục (lời tựa) nhưng đến nay đã bị thất truyền[2]. Lúc đầu ba tác phẩm Ngụy chí, Thục chí và Ngô chí tồn tại riêng rẽ, đến năm Hàm Bình thứ 6 thời Bắc Tống (1003) hợp nhất đổi tên thành Tam quốc chí.
Lập trường chính trị
Trần Thọ là quan nhà Tấn, do đó phải lấy triều đại đã nhường ngôi cho Tấn là Tào Ngụy làm chính thống.
Ngụy chí xếp các Hoàng đế nhà Ngụy vào bản kỷ. Tào Tháo tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi Hoàng đế nhưng cũng được xếp vào bản kỷ. Có 4 quyển bản kỷ là Vũ Đế kỷ (Tào Tháo), Văn Đế kỷ (Tào Phi), Minh Đế kỷ (Tào Duệ) và Tam Thiếu Đế kỷ (Tào Phương, Tào Mao và Tào Hoán). Các văn thư nói về việc các vua Ngụy xưng vương, xưng đế, trị nước và việc tang đều không chép (ngoại trừ chiếu nhường ngôi của Hán Hiến Đế - Hán Hiến Đế thiện nhượng sách văn, các văn thư khác chỉ do Bùi Tùng Chi chú thích).
Thục chí xếp Lưu Bị vào liệt truyện tức Tiên chủ truyện (mặc dù Lưu Bị xưng đế), không gọi trực tiếp tên húy, khi chết dùng chữ tồ (殂) ngang địa vị với chữ băng (崩)[3]. Các văn thư nói về việc Lưu Bị xưng vương, xưng đế, trị nước và việc tang đều chép đầy đủ (có thể do tình lưu luyến với cố quốc). Hoàng đế thứ hai nhà Thục Hán là Lưu Thiện được xếp vào Hậu chủ truyện.
Ngô chí trong nguyên bản gọi thẳng tên húy các vua Đông Ngô như Tôn Quyền truyện, Tôn Lượng Tôn Hưu Tôn Hạo truyện; cách gọi hiện nay Ngô chủ truyện, Tam tự chủ truyện là do người đời sau sửa lại. Về việc Tôn Quyền tuyên bố xưng đế, trong phần Ngô chủ truyện có chép câu "Nam giao tức Hoàng đế vị" (lên ngôi Hoàng đế ở đàn Nam giao), còn văn thư đăng đàn tế cáo trời đất thì không chép, chỉ có trong phần chú thích của Bùi Tùng Chi.
Đồng thời để tôn trọng sự thống trị của nhà Tấn, Tam quốc chí không viết liệt truyện về các nhân vật Tư Mã Ý, Tư Mã Sư và Tư Mã Chiêu (do được Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm truy tôn là Tấn Tuyên Đế, Tấn Cảnh Đế, Tấn Văn Đế)[4]. Ngoài ra, tác giả cũng lược bỏ không viết liệt truyện về nhân vật Khổng Dung.
Bùi Tùng Chi chú thích
Vào thời Đông Hán, sử học tiếp nhận ảnh hưởng từ trào lưu đơn giản hóa của kinh học nên xuất hiện trào lưu giản lược hóa các tài liệu lịch sử. Trong bối cảnh đó, đã xuất hiện Tam quốc chí của Trần Thọ với nội dung giản lược về thời đại Tam quốc. Sau khi Trần Thọ mất hơn trăm năm, nhiều sử liệu về thời Tam quốc xuất hiện, Tống Văn Đế thời Nam-Bắc triều thấy nội dung của Tam quốc chí quá sơ lược nên đã ra lệnh cho Bùi Tùng Chi chú thích[5]. Bùi Tùng Chi đã tập hợp các sử liệu để bổ sung các phần mà Tam quốc chí không chép hoặc chép thiếu bằng 6 phương pháp:
Dẫn lời bàn luận của nhiều tác gia khác nhau để phân định phải trái.
Tham khảo ý kiến của nhiều tác gia khác nhau để xét những điểm khác biệt, ngụy tạo.
Sự việc trong các truyện đều kể rõ mọi đầu đuôi, uẩn khúc.
Bổ sung các sự việc còn thiếu cho các truyện.
Kể rõ cuộc đời của các nhân vật trong các truyện.
Phụ thêm các nhân vật còn thiếu cho các truyện[6].
Các tài liệu chủ yếu mà Bùi Tùng Chi sử dụng để chú giải Tam quốc chí có thể kể đến là:
Dị đồng tạp ký của Tôn Thịnh, người thời Đông Tấn, nội dung hỗn tạp. Có ý kiến cho rằng Bùi Tùng Chi chủ yếu dựa vào tác phẩm này để biên soạn Tam quốc chí chú. Nhiều bình luận của Tôn Thịnh cũng được Bùi Tùng Chi dẫn lại.
Ngụy mạt truyện, khuyết danh, ghi chép các sự kiện cuối thời Ngụy.
Ngụy lược của Ngư Hoạn, ghi chép lịch sử nước Ngụy, trong đó có nói về các dân tộc khác ở biên giới nước Ngụy. Phần Điển lược cũng ghi chép về các nước bên ngoài Ngụy, là tác phẩm đầu tiên của Trung Quốc đề cập đến Đế quốc La Mã (mà họ gọi là nước Đại Tần).
Hiến Đế ký, Tùy chí cho là của Lưu Phương, có ý kiến cho là của Lưu Ngải. Lưu Ngải là người thời Đông Hán. Nội dung ghi chép về Hán Hiến Đế, nhưng một số tình tiết về vua Hiến Đế không được ghi chép đầy đủ.
Hiến Đế truyện, khuyết danh. Tác phẩm này bổ sung cho Hiến Đế ký, có chép việc Hán Hiến Đế xuống chiếu nhường ngôi cho Tào Phi, Tào Phi nghe lời các quan văn võ cự tuyệt nhiều lần rồi mới nhận.
Giang Biểu truyện của Ngu Phổ, người thời Đông Tấn. Nội dung nói về các nhân sĩ ở Giang Nam, tuy nhiên chủ yếu ca ngợi các nhân vật ở Giang Đông mà chê bai các nhân sĩ ở Thục, Ngụy, so với các tác phẩm khác có nhiều điểm mâu thuẫn, không đáng tin cậy. Nhiều sử gia Trung Quốc nghi ngờ tác phẩm này.
Tấn thư của Vương Ẩn (không nhầm với Tấn thư của Phòng Huyền Linh), do Vương Ẩn và cha là Vương Thuyên biên soạn. Vương Ẩn giữ chức trước tác lang thời Đông Tấn. Ngu Dự lấy cắp nguyên cảo của Vương Ẩn đi sao chép khiến Vương Ẩn bị miễn chức. Vương Ẩn theo Dữu Lượng lấy được lời cung, rồi hoàn thành Tấn thư, nội dung ghi chép lịch sử Tây Tấn.
Tấn thư của Ngu Dự, người thời Đông Tấn. Nhiều ý kiến cho rằng ông lấy cắp tác phẩm của Vương Ẩn làm của mình.
Sưu thần ký của Can Bảo, là tiểu thuyết ghi chép các truyện quái dị, nội dung có chép việc Tôn Sách giận chém Vu Cát rồi uất lên mà chết. Tác phẩm này hiện nay vẫn còn, chủ yếu do người đời sau ghi lại.
Tào Man truyện, tác giả người Đông Ngô nhưng không rõ tên. Nội dung ghi chép về Tào Tháo, là sử liệu quan trọng nói về hình tượng Tào Tháo.
Bão Phác Tử của Cát Hồng, là kinh điển của Đạo giáo. Ngoại thiên chủ yếu tự thuật cuộc đời và những lời nói của Cát Hồng, nội thiên nói về tư tưởng Đạo gia và phương pháp tu luyện đạo của Cát Hồng
Theo thống kê của một số học giả, thì số tư liệu mà Bùi Tùng Chi dùng để chú giải Tam quốc chí là khoảng 240 loại, gấp 3 lần so với nguyên bản Tam quốc chí. Mã Niệm Tổ trong tác phẩm Thủy kinh chú đẳng bát chủng cổ tịch dẫn dụng thư mục vị biên cho rằng số tư liệu mà Bùi Tùng Chi sử dụng là 203 loại. Hiện nay, theo thống kê bản hiệu đính Tam quốc chí tại Trung Hoa thư cục đã phát hiện phần chính văn của Trần Thọ có 366657 chữ và phần chú thích của Bùi Tùng Chi có 320799 chữ. Tống Văn Đế đương thời gọi công việc chú thích của Bùi Tùng Chi là "bất hủ". Các sử gia đời sau như Tư Mã Quang (thời Bắc Tống) khi biên soạn Tư trị thông giám đã tổng hợp các truyện ký trong Tam quốc chí của Trần Thọ và phần chú thích của Bùi Tùng Chi để miêu tả trận chiến Xích Bích.
Bản Tam quốc chí do Bùi Tùng Chi chú thích là bản thông dụng nhất hiện nay, còn gọi là Trần chí, Bùi chú.
Các tác phẩm hậu thế bổ sung
Tam quốc chí tập giải
Lư Bật (1876 - 1967) đã tập hợp các phần chú thích, hiệu đính và khảo chứng Tam quốc chí của nhiều học giả ở các thời đại khác nhau, biên soạn thành Tam quốc chí tập giải.
Hồng Lượng Cát, Tam quốc cương vực chí, Bổ Tam quốc cương vực chí bổ chú. Về sau có Ngô Tăng Cẩn, Tam quốc quận huyện biểu phụ khảo chứng; Dương Thủ Kính, Tam quốc quận huyện biểu bổ chính; Kim Triệu Phong, Hiệu bổ Tam quốc cương vực chí.
Vạn Tư Đồng trong Lịch đại sự biểu có Tam quốc đại sự niên biểu, Tam quốc Hán quý phương trấn niên biểu, Ngụy tướng tương đại thần niên biểu, Tam quốc chư vương thế biểu, Ngụy quốc tướng tương đại thần niên biểu, Ngụy tướng tương đại thần niên biểu, Ngụy phương trấn niên biểu, Hán tướng tương đại thần niên biểu, Ngô tướng tương đại thần niên biểu.
Hoàng Đại Hoa, Tam quốc chí tam công tể phụ niên biểu
Ngoài ra còn có quyển 66: Tự lục (nay thất truyền).
Bản dịch tiếng Việt
Tam quốc chí, Bùi Thông dịch, Phạm Thành Long hiệu đính, Nhà xuất bản Văn học và Nhà sách Tri thức Trẻ, tháng 6/2016, 3 tập.[9]
Bố cục:
Tập 1 gồm Lời giới thiệu (của Phạm Thành Long), Niên biểu, Thống kê các sự kiện chính, Tựa (của Võ Hoàng Giang), Ngụy thư từ quyển 1 đến Quyển 13, 744 trang. Kèm một bản đồ 4 trận đánh lớn (Quan Độ, Xích Bích, Hồ Đình (Hào Đình), Kỳ Sơn năm 228).
Tập 2: Ngụy thư từ Quyển 14 đến Quyển 30, 728 trang.
Tập 3: Thục thư và Ngô thư, từ Quyển 31 đến Quyển 65, 920 trang.
Thời Vương dục hoàn, xuất lệnh viết"kê lặc", quan thuộc bất tri sở vị. Chủ bộ Dương Tu tiện tự nghiêm trang, nhân kinh vấn Tu:"Hà dĩ tri chi?"
Tu viết:"Phù kê lặc, khí chi như khả tích, thực chi vô sở đắc, dĩ tỷ Hán Trung, tri Vương dục hoàn dã".
Khi Vương muốn rút về, mới ra lệnh rằng"kê lặc", các quan không hiểu ý gì. Quan chủ bộ là Dương Tu liền tự thu xếp hành trang, mọi người kinh ngạc hỏi Tu:"Làm sao ông biết?"
Tu đáp:"Gân gà, bỏ đi thì tiếc, ăn vào thì không ra gì, lấy nó để ví với đất Hán Trung, biết Vương đã muốn lui rồi" (時王欲還,出令曰「雞肋」,官屬不知所謂。主簿楊脩便自嚴裝,人驚問脩:「何以知之?」脩曰:「夫雞肋,棄之如可惜,食之無所得,以比漢中,知王欲還也。」
"Tư Mã Chiêu chi tâm, lộ nhân sở tri" (lòng dạ Tư Mã Chiêu, người ngoài đường cũng biết): Ngụy thư quyển 4, Tam Thiếu Đế kỷ, Bùi Tùng Chi dẫn sách Hán Tấn Xuân Thu của Tập Tạc Xỉ viết: Đế kiến uy quyền nhật khứ, bất thăng kỳ phẫn. Nãi triệu thị trung Vương Thẩm, thượng thư Vương Kinh, tán kỵ thường thị Vương Nghiệp, vị viết:"Tư Mã Chiêu chi tâm, lộ nhân sở tri dã. Ngô bất năng tọa thụ phế nhục, kim nhật đương dữ khanh tự xuất thảo chi"= Vua thấy uy quyền càng ngày càng mất, không nén nổi căm giận. Bèn triệu quan thị trung Vương Thẩm, quan thượng thư Vương Kinh và tán kỵ thường thị Vương Nghiệp, nói rằng:"Lòng dạ Tư Mã Chiêu, người ngoài đường cũng biết. Ta không thể ngồi yên chịu nhục, hôm nay muốn cùng các khanh đi thảo phạt nghịch tặc"(帝見威權日去,不勝其忿。乃召侍中王沈、尚書王經、散騎常侍王業,謂曰:「司馬昭之心,路人所知也。吾不能坐受廢辱,今日當與卿自出討之。」
"Lão sinh thường đàm" (lời thầy đồ thường nói): Ngụy thư quyển 29, Quản Lộ truyện, Đặng Dương nói với Quản Lộ:"Thử lão sinh chi thường đàm"(此老生之常譚 - Đó là lời lũ thầy đồ thường nói). Quản Lộ đáp:"Phù lão sinh giả kiến bất sinh, thường đàm giả kiến bất đàm"(夫老生者見不生,常譚者見不譚 - Lão sinh đã thấy thì không sinh, thường đàm đã thấy thì không đàm)
"Lạc bất tư Thục" (vui không nhớ đến nước Thục nữa): Thục thư quyển 3, Hậu chủ truyện, Bùi Tùng Chi dẫn sách Hán Tấn Xuân Thu của Tập Tạc Xỉ viết: Vương vấn Thiện viết:"Phả tư Thục phủ?"Thiện viết:"Thử gian lạc, bất tư Thục"= Vương hỏi Thiện rằng:"Có nhớ nước Thục không?"Thiện đáp:"Ở đây vui lắm, không nhớ nước Thục nữa"(王問禪曰:「頗思蜀否?」禪曰:「此間樂,不思蜀。)
Đánh giá
Tam quốc chí là chính sử ghi chép về thời Tam quốc của Trung Quốc, được xếp vào danh sách nhị thập tứ sử. Đương thời đại thần nhà Tấn là Trương Hoa đánh giá rất cao tác phẩm này. Sau khi Trần Thọ mất, Thượng thư lang Phạm Quân dâng biểu tâu rằng:
“
Trần Thọ viết Tam quốc chí, lời văn nhiều chỗ khuyên răn, tỏ rõ mọi điều lợi hại, có ích cho phong hóa, tuy văn không hay bằng Tương Như nhưng chất thì ngay thẳng hơn nhiều, nguyện xin sao lục[10].
Tam quốc chí của Trần Thọ thấm nhuần chất văn, Tuân, Trương đem so sánh với Thiên, Cố chẳng phải là quá lời[11].
”
Thiếu sót lớn nhất của Tam quốc chí là chỉ có bản kỷ và liệt truyện, không có phần chí và biểu, do đó tác phẩm chủ yếu chép về các nhân vật thời Tam quốc chứ không chép về địa lý, kinh tế và chế độ chính trị. Tính khách quan của Trần Thọ khi viết sử cũng còn nhiều ý kiến phê bình khác nhau, như Tấn thư của Phòng Huyền Linh ghi lại rằng:
“
Đinh Nghi, Đinh Dị là hai người có tiếng ở nước Ngụy, Thọ bảo con họ rằng:"Nếu tìm cho ta được nghìn hộc lương, ta sẽ vì tôn phụ mà viết truyện cho hay."Họ Đinh không mang đến nên không được viết truyện. Cha Thọ làm tham quân cho Mã Tốc, Tốc bị Gia Cát Lượng giết, cha Thọ cũng bị xử tội cắt tóc, Gia Cát Chiêm lại khinh Thọ. Thọ viết truyện về Lượng, bảo Lượng mưu lược không cao, không có tài ứng địch, bàn luận thì chỉ dựa vào sách vở, tiếng tăm vượt quá sự thực. Người bàn lấy đó để chê[12].
Lúc Tuyên, Cảnh mới khai sáng cơ nghiệp, khi (họ) Tào và (họ Tư) Mã tranh giành, hoặc dựng doanh trại ở sông Vị, bị thua Vũ hầu, hoặc phát binh ở Vân Đài (đánh Tư Mã Chiêu), bị Thành Tế hại chết, Trần Thọ, Vương Ẩn đều ngậm miệng không nói đến[13].
Trên từ Sử ký Tư Mã Thiên, dưới đến Ngũ Đại sử, trong khoảng mấy ngàn năm, từ vương bá chính thống đến tiếm ngôi loạn tặc, từ các nước nhỏ, cho đến các nước Man Di Nhung Địch ở bên ngoài, sử gia không bao giờ là không ghi chép quốc hiệu, nhưng Tam quốc chí thì không thế. Cha con Lưu Bị nối tiếp nhau cai trị hơn bốn chục năm, trước sau đều xưng quốc hiệu là Hán, chưa từng xưng là Thục bao giờ, nếu như có xưng Thục thì cũng chỉ là lời tục xưng mà thôi. Trần Thọ phế bỏ chính hiệu, dùng lời tục xưng, làm theo ý riêng của Ngụy Tấn, bỏ đi phép công của người viết sử. Dụng ý như thế, thì những việc thiện ác khen chê trong sách chắc cũng định đoạt luôn, là đáng tin ư![14]
Trước kia Âu Dương Văn Trung công viết Ngũ Đại sử, Vương Kinh công nói rằng: Chuyện thời Ngũ Đại, không đủ để ghi chép, sao đủ làm phiền đến ông. Những chuyện đáng vui mừng thời Tam Quốc rất nhiều, đều bị Trần Thọ phá hoại. Bây giờ có thể viết lại[15].
”
Tam quốc chí quyển 20: Vũ Văn thế Vương Công truyện có chép việc Tào Xung cân voi, Hà Trác (người thời Thanh) nghi ngờ rằng việc này không chắc đã có thật:
“
Tôn Sách chết vào năm Kiến An thứ năm, Tôn Quyền mới lên thay, đến năm Kiến An thứ mười lăm Quyền sai Bộ Chất làm Thứ sử Giao Châu, Sĩ Nhiếp đem anh em đến vâng theo mệnh lệnh, sau đó (người Ngô) mới có thể biết được loài voi to (ở Giao Châu), còn Thương Thư (tên tự của Tào Xung) thì đã mất vào năm Kiến An thứ mười ba, do đó việc (Tào Xung cân voi) là bịa đặt. Vạch mực nước đánh dấu trên thuyền thì nghi rằng toán thuật cũng có phép này.[16]
Vào cuối thời Nguyên đầu thời Minh, La Quán Trung đã căn cứ vào các truyền thuyết dân gian, thoại bản, hý khúc cùng các tài liệu lịch sử là Tam quốc chí của Trần Thọ và Tam quốc chí chú của Bùi Tùng Chi để viết nên tác phẩm Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa (gọi tắt là Tam quốc diễn nghĩa).
Tiểu thuyết này có ảnh hưởng rất lớn ở Trung Quốc và nhiều nước châu Á. Trong khi Tam quốc chí là chính sử, thì Tam quốc diễn nghĩa lại là tiểu thuyết văn học lịch sử, tác giả đã thêm thắt nhiều truyền thuyết, truyện kể dân gian để tăng thêm tính hấp dẫn; do đó Tam quốc diễn nghĩa có tính chất là "thất thực tam hư" (bảy phần thực, ba phần hư cấu), độ tin cậy về lịch sử dĩ nhiên không cao bằng Tam quốc chí.
^Kinh Thư trong phần Nghiêu điển đã dùng chữ tồ để chỉ cái chết của Đường Nghiêu"Nhị thập hữu bát tải, đế nãi tồ lạc". Vào thời Tam quốc chữ tồ thường được dùng cho đế vương, như Gia Cát Lượng trong phần đầu Xuất sư biểu đã viết: "Tiên đế sáng nghiệp vị bán nhi trung đạo băng tồ".
^Các nhân vật này được ghi chép trong quyển 1 và quyển 2 phần Đế kỷ của sách Tấn thư do Phòng Huyền Linh chủ biên.
^Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu, thời nhà Thanh: "Nhất thị dẫn chư gia chi luận, dĩ biện thị phi; nhị thị tham chư gia chi thuyết, dĩ hạch ngụy dị; tam thị truyện sở hữu chi sự, tường kỳ ủy khúc; tứ thị truyện sở vô chi sự, bổ kỳ khuyết dật; ngũ thị truyện sở hữu chi nhân, tường kỳ sinh bình; lục thị truyện sở vô chi nhân, phụ dĩ đồng loại".
^ abcCác bản Tam quốc chí hiện nay đều gọi là Ngụy thư, Thục thư, Ngô thư
^Tam Quốc ChíLưu trữ 2018-02-20 tại Wayback Machine CÔNG TY TNHH SÁCH VÀ TRUYỀN THÔNG VN Số trang: 2750 Kích thước: 15,5*23,5. Ngày phát hành: 10/4/2017
^Tấn thư, quyển 82, Trần Thọ truyện: "Trần Thọ tác Tam quốc chí, từ đa khuyến giới, minh hồ đắc thất, hữu ích phong hóa, tuy văn diễm bất nhược Tương Như, nhi chất trực quá chi, nguyện thùy thái lục."
^Tấn thư, quyển 82, Trần Thọ truyện: "Hoặc vân Đinh Nghi, Đinh Dị hữu thịnh danh ư Ngụy, Thọ vị kì tử viết:"Khả mịch thiên hộc mễ kiến dữ, đương vi tôn công tác giai truyện."Đinh bất dữ chi, cánh bất vi lập truyện. Thọ phụ vi Mã Tốc tham quân, Tốc vi Gia Cát Lượng sở tru, Thọ phụ diệc tọa bị khôn, Gia Cát Chiêm hựu khinh Thọ. Thọ vi Lượng lập truyện, vị Lượng tương lược phi trường, vô ứng địch chi tài, ngôn chiêm duy công thư, danh quá kì thực. Nghị giả dĩ thử thiểu chi."
^Sử thông, thiên Trực thư: "Đương Tuyên, Cảnh khai cơ chi thủy, Tào, Mã cấu phân chi tế, hoặc liệt doanh Vị khúc, kiến khuất Vũ hầu, hoặc phát trượng Vân Đài, thủ thương Thành Tế, Trần Thọ, Vương Ẩn hàm đỗ khẩu nhi vô ngôn."
^Đường Canh, Tam quốc tạp sự: "Thượng tự Tư Mã Thiên Sử ký, hạ chí Ngũ Đại sử, kỳ gian số thiên bách niên, chính thống thiên bá dữ phu tiếm thiết loạn tặc, thậm vi chí nhược chi quốc, ngoại chí Man Di Nhung Địch chi bang, sử gia vị hữu bất thư kỳ quốc hiệu giả, nhi Tam quốc chí độc bất nhiên. Lưu Bị phụ tử tương kế tứ thập dư niên, thủy chung hiệu Hán, vị thường nhất xưng Thục; kì xưng Thục, tục lưu chi ngữ nhĩ. Trần Thọ truất kỳ chính hiệu, tòng kỳ tục xưng, tuần Ngụy Tấn chi tư ý, phế sử gia chi công pháp. Dụng ý như thử, tắc kỳ sở thư thiện ác bao biếm dư đoạt, thượng khả tín hồ!"
^Đường Canh, Tam quốc tạp sự: "Vãng thời Âu Dương Văn Trung công tác Ngũ Đại sử, Vương Kinh công viết: Ngũ Đại chi sự, vô túc thái giả, thử hà túc phiền công? Tam Quốc khả hỉ sự thậm đa, tất vi Trần Thọ sở hoại. Khả canh vi chi."
^Lương Chương Cự, Tam quốc chí bàng chứng: "Tôn Sách dĩ Kiến An ngũ niên tử, thì Tôn Quyền sơ thống sự, chí Kiến An thập ngũ niên Quyền khiển Bộ Chất mã vi Giao Châu Thứ sử, Sĩ Nhiếp suất huynh đệ phụng thừa tiết độ, thử hậu hoặc năng trí cự tượng, nhi Thương Thư dĩ vu Kiến An thập tam niên tiền tử hỹ, tri thử sự vọng sức dã. Trí thủy khắc thuyền, nghi toán thuật trung bản hữu thử pháp."