Các nhà nước trong lịch sử Việt Nam có những quốc hiệu khác nhau như Xích Quỷ, Văn Lang, Đại Việt, Đại Nam hay Việt Nam. Chữ Việt Nam (越南) được cho là việc đổi ngược lại của quốc hiệu Nam Việt (南越) thời Triệu Vũ Ðế. Chữ "Việt" 越 đặt ở đầu biểu thị đất Việt Thường, cương vực cũ của nước này, từng được dùng trong các quốc hiệu Đại Cồ Việt (大瞿越) và Đại Việt (大越), là các quốc hiệu từ thế kỷ 10 tới đầu thế kỷ 19. Chữ "Nam" 南 đặt ở cuối thể hiện đây là vùng đất phía nam, là vị trí cương vực, từng được dùng cho quốc hiệu Đại Nam (大南), và trước đó là một cách gọi phân biệt Đại Việt là Nam Quốc (như "Nam Quốc Sơn Hà") với Bắc Quốc là Trung Hoa.
Vua Gia Long nhà Nguyễn chính thức sử dụng quốc hiệu "Việt Nam" từ năm 1804.[18] Sau đó Nhà Thanh công nhận Việt Nam là quốc hiệu của Nhà Nguyễn.[19] Đặt quốc hiệu là "Việt Nam" để không nhầm với nước Nam Việt, cũng như thể hiện vị trí địa lý nằm ở phía nam Bách Việt. Trùng hợp là trước đó mấy trăm năm, trong Sấm Trạng TrìnhNguyễn Bỉnh Khiêm đã dùng tên "Việt Nam" làm tên chính thức, mặc dù khi đó vẫn còn sử dụng quốc hiệu "Đại Việt". Năm 1804, vua Thanh cho án sát sứ Quảng Tây Tề Bố Sâm sang tuyên phong Gia Long làm "Việt Nam quốc vương" 越南國王 mặc dù các vua nhà Nguyễn vẫn theo lệ cũ tự phong "Hoàng đế" 皇帝 cho ngang hàng với vua Trung Quốc.[19][20]
Trong văn viết tiếng Anh hiện nay, cách viết tiêu chuẩn và thông dụng nhất cho tên gọi Việt Nam là Vietnam (viết liền không dấu cách), dẫn đến tính từ là Vietnamese. Tại Việt Nam vẫn còn tồn tại hai cách viết vẫn giữ dấu cách là "Viet Nam" (bỏ dấu) và "Việt Nam" (để đầy đủ dấu theo chữ Quốc ngữ). Điều này có thể nhận thấy trên website của Chính phủ Việt Nam và Bộ Ngoại giao Việt Nam cho phiên bản tiếng Anh trước đây có dùng cả 3 cách: "Vietnam", "Viet Nam" hoặc "Việt Nam".[23][24] Danh sách liệt kê thành viên trên websiteLiên Hợp Quốc viết tên quốc gia này là "Viet Nam" trong khi các bài viết tiểu mục thì vẫn viết là "Vietnam". Hiện Bộ Ngoại giao Việt Nam và Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO) công nhận "Viet Nam" và quốc hiệu "the Socialist Republic of Viet Nam" là tên gọi chính xác, được chuẩn hóa của Việt Nam trên các văn bản tiếng nước ngoài, chủ yếu trên các văn bản và văn hóa phẩm tiếng Anh được phát hành bởi Nhà nước Việt Nam.[25][26] Dù trước đây, như đã kể trên, vấn đề tên gọi thống nhất cho Việt Nam đã chưa được coi trọng, thì hiện tại, các website chính thức của Chính phủ Việt Nam đã gần như hoàn toàn sử dụng tên gọi đã chuẩn hóa là "Viet Nam", hạn chế tối đa việc sử dụng các dị bản như "Vietnam".[27][28]
Khoảng cách giữa cực Bắc và cực Nam của Việt Nam theo đường chim bay là 1.650 km. Nơi có chiều ngang hẹp nhất ở Quảng Bình với chưa đầy 50 km. Đường biên giới đất liền dài hơn 4.600 km, trong đó, biên giới với Lào dài nhất (gần 2.100 km), tiếp đến là Trung Quốc và Campuchia. Tổng diện tích là 331.212 km² gồm toàn bộ phần đất liền và hải đảo[35] cùng hơn 4.000 hòn đảo, bãi đá ngầm và cả hai quần đảo trên Biển Đông là Trường Sa (thuộc tỉnh Khánh Hòa) và Hoàng Sa (thuộc thành phố Đà Nẵng) mà nhà nước tuyên bố chủ quyền.
Địa hình Việt Nam có núi rừng chiếm khoảng 40%, đồi 40% và độ che phủ khoảng 75% diện tích đất nước. Có các dãy núi và cao nguyên như dãy Hoàng Liên Sơn, cao nguyên Sơn La ở phía bắc, dãy Bạch Mã và các cao nguyên theo dãy Trường Sơn ở phía nam. Mạng lưới sông, hồ ở vùng đồng bằng châu thổ hoặc miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Đồng bằng chiếm khoảng 1/4 diện tích, gồm các đồng bằng châu thổ như đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long và các vùng đồng bằng ven biển miền Trung, là vùng tập trung dân cư. Đất canh tác chiếm 17% tổng diện tích đất Việt Nam.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết có sự biến động. Phía bắc dãy Bạch Mã có 2 mùa gió chính: gió mùa Đông Bắc lạnh và khô vào mùa đông tạo nên mùa đông lạnh; gió Tây Nam nóng khô và Đông Nam ẩm ướt vào mùa hè. Phía nam có gió Đông Bắc vào mùa khô và gió Tây Nam vào mùa mưa. Các dòng biển phần nào đó điều hòa khí hậu. Độ ẩm tương đối trung bình là 84% suốt năm. Việt Nam trải qua các đợt lụt và bão, có lượng mưa từ 1.200 đến 3.000 mm, số giờ nắng khoảng 1.500 đến 3.000 giờ/năm và nhiệt độ từ 5 °C đến 37 °C. Nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,5 độ Celsius trong vòng 50 năm (1964–2014).[36]
Đến thời đại đồ đá mới cách đây 5000 đến 6000 năm, người Việt cổ bắt đầu biết canh tác lúa nước; loạt dấu vết trồng lúa có từ cao nguyên tới đồng bằng.[39] Ngoài ra, con người bắt đầu biết chế tác công cụ theo kiểu khác và làm đồ gốm với kỹ thuật khác.[39] Đến khoảng thiên niên kỷ I TCN vào cuối thời kỳ đồ đồng, khu vực lúa nước ở sông Hồng và sông Cả phát triển thành nền văn hóa Đông Sơn[40] rồi cùng thời gian đó, những nhà nước đầu tiên lần lượt xuất hiện đó là Văn Lang và Âu Lạc.[41]
Năm 1954, Chiến tranh Đông Dương kết thúc, Pháp phải công nhận sự độc lập của Việt Nam và rút quân, xuất hiện 2 vùng tập kết quân sự chờ cuộc bầu cử thống nhất đất nước[54] nhưng không thành do Hoa Kỳ hậu thuẫn cho Việt Nam Cộng hòa (chính phủ kế thừa Quốc gia Việt Nam) từ chối tổ chức bầu cử.[55] Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hậu thuẫn các lực lượng miền Nam nổi dậy chống Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, gây ra xung đột quân sự mà tiếp theo đó là sự tham chiến của quân đội Hoa Kỳ và đồng minh.[56] Chiến tranh kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Tổng thống Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đầu hàng.[57]
Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu bởi Tổng Bí thư, được Điều 4 Hiến pháp quy định là Đảng cầm quyền, tổ chức chính trị duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội trên chính trường Việt Nam, cam kết với các nguyên tắc của Lênin "tập trung dân chủ" và không cho phép đa đảng.[61]
Quốc hội nhiệm kỳ 5 năm, đứng đầu là Chủ tịch Quốc hội, theo Hiến pháp là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Duy nhất Quốc hội có quyền lập hiến, lập pháp với nhiệm vụ giám sát, quyết định những chính sách cơ bản, những nguyên tắc của bộ máy Nhà nước và quan hệ xã hội công dân. Quốc hội không độc lập và tuân thủ đa số các quy định từ Đảng nhưng sau Đổi mới, vai trò của Quốc hội đẩy lên cao hơn.
Bốn chức danh Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng và Chủ tịch Quốc hội được gọi là các lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam (phải là Ủy viên Bộ Chính trị trọn một nhiệm kỳ trở lên, trường hợp đặc biệt do Ban Chấp hành Trung ương quyết định).
Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử. Ngoài ra, Tòa án quân sự có thẩm quyền đặc biệt trong các vấn đề an ninh quốc gia.
Quân chủng Lục quân: không tổ chức Bộ tư lệnh riêng như Hải quân, Phòng không – Không quân và Cảnh sát biển mà các quân đoàn chủ lực và binh chủng do Bộ Tổng tham mưu trực tiếp chỉ đạo.
Quân chủng Hải quân: thành lập năm 1955, xây dựng trên cơ sở Cục Phòng thủ Bờ biển.
VPA có số lượng khoảng 450.000 người, còn tổng lực lượng, bao gồm cả bán quân sự và dân quân tự vệ, có thể lên khoảng 5.000.000 người. Năm 2022, chi phí đầu tư quân sự ở Việt Nam khoảng 7,32 tỷ USD, tương đương khoảng 1,79% GDP năm 2022.
Theo các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chủ trương đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng, đa phương hóa quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm "Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển".
Chính sách Đổi mới năm 1986 đã thiết lập mô hình "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Các thành phần kinh tế được mở rộng hơn nhưng những ngành kinh tế chủ lực, thiết yếu vẫn dưới sự điều hành của Nhà nước. Từ năm 1993 đến 1997, kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng trung bình hằng năm khoảng 9%. Tăng trưởng GDP đạt mức 8,5% vào năm 1997 nhưng giảm xuống 4% năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 và tăng nhẹ lên mức 4,8% năm 1999. Tăng trưởng GDP tiếp tục tăng lên từ 6% đến 7% trong giai đoạn giữa những năm 2000 và 2002. Ngày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam được phép gia nhập WTO sau khi kết thúc đàm phán song phương với các nước có yêu cầu và chính thức là thành viên thứ 150 vào ngày 11 tháng 1 năm 2007.[66] Sau cải cách kinh tế – xã hội, theo một số nghiên cứu, bất bình đẳng thu nhập đã gia tăng.[67][68][69]
Năm 2013, tại một hội thảo ở Hà Nội, các chuyên gia nhận định nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng chậm lại sau 5 năm gia nhập WTO. Cụ thể, trong giai đoạn 2007–2011, chỉ có năm 2008 là Việt Nam đạt mức tăng trưởng GDP trên 8% dù xuất khẩu tăng 2,4 lần - lên mức 96,9 tỷ USD. Đa phần tỷ trọng xuất khẩu là do khối các doanh nghiệpFDI, chiếm khoảng 60%, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là nông - lâm sản và khoáng sản thô. Sau hội nhập, tỷ trọng nhập siêu cũng tăng, lên mức 18 tỷ USD vào năm 2008. Đến năm 2013, do ảnh hưởng bởi Đại suy thoái, nền kinh tế đối mặt với áp lực lớn từ nợ xấu, lạm phát cùng nợ công tăng mạnh.[70] Tình trạng tham nhũng luôn xếp ở mức cao trên trung bình của thế giới[71][72] và đồng thời, các vấn đề liên quan đến vốn, đào tạo lao động, quy hoạch đất đai, cải cách hành chính, cơ sở hạ tầng,... cùng hàng chục ngàn thủ tục kinh doanh lỗi thời từ 20 năm trước vẫn còn đang tồn tại.
Các tuyến giao thông nội địa chủ yếu từ đường bộ, đường sắt, đường hàng không đều theo hướng bắc – nam. Hệ thống đường bộ gồm các quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ... Có tổng chiều dài khoảng 222.000 km, phần lớn các tuyến đường quốc lộ và tỉnh lộ đều trải nhựa và bê tông hóa, thiểu số các tuyến đường huyện lộ đang còn là các con đường đất. Hệ thống đường sắt Việt Nam dài tổng 2652 km trong đó tuyến Đường sắt Bắc Nam dài 1726 km.
Truyền thông Việt Nam có bốn loại hình báo chí là báo in, báo nói, báo hình và báo điện tử. Việt Nam hòa mạng internet quốc tế vào năm 1997 và hơn 10 năm nay, hàng loạt báo điện tử, trang tin điện tử đã ra đời. Thống kê đến tháng 7 năm 2010, tại Việt Nam có 858 cơ quan báo chí in, trong đó có 178 báo và 528 tạp chí. Có 65 đài phát thanh – truyền hình, gồm 2 đài phát thanh – truyền hình trung ương (VTV, VOV) và 63 đài phát thanh – truyền hình ở các địa phương. Có 34 báo điện tử, 180 trang tin điện tử của các cơ quan tạp chí, báo, đài và hàng ngàn trang thông tin điện tử.[80]
Số lượng khách du lịch đến Việt Nam tăng nhanh nhất trong vòng 10 năm từ 2000–2010. Năm 2013, có gần 7,6 triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam và năm 2017, có hơn 10 triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam, các thị trường lớn nhất là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ và Đài Loan.[81]
Việt Nam có các điểm du lịch từ Bắc đến Nam, từ miền núi tới đồng bằng, từ các thắng cảnh thiên nhiên tới các di tích văn hóa lịch sử. Các điểm du lịch miền núi như Sa Pa, Bà Nà, Đà Lạt. Các điểm du lịch ở các bãi biển như Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu và các đảo như Cát Bà, Côn Đảo, Lý Sơn.
Khoa học
Năm 2010, tổng chi tiêu của Nhà nước vào khoa học và công nghệ chiếm khoảng 0,45% GDP. Theo UNESCO, Việt Nam đã dành 0,19% GDP để nghiên cứu và phát triển khoa học vào năm 2011. Chiến lược tìm cách thúc đẩy hợp tác khoa học quốc tế lớn hơn, với kế hoạch thiết lập mạng lưới các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài và khởi xướng một mạng lưới kết nối các tổ chức khoa học quốc gia với các đối tác nước ngoài.
1 bộ chiến lược phát triển quốc gia cho các lĩnh vực trong kinh tế, chủ yếu liên quan đến khoa học công nghệ. Ví dụ là Chiến lược phát triển bền vững (2012) và Chiến lược phát triển ngành cơ khí (2006) cùng với Tầm nhìn 2020 (2006). Kêu gọi nhân lực có tay nghề, đầu tư nâng cấp công nghệ khu vực tư nhân. Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ 2011–2020 năm 2012 lập kế hoạch ưu tiên nghiên cứu toán, vật lý; điều tra khí hậu, thiên tai; phát triển hệ điều hành điện tử; công nghệ sinh học áp dụng đặc biệt cho nông, lâm nghiệp, y học và môi trường.
Tổng số dân của Việt Nam vào thời điểm 0h ngày 01/4/2019 là 96.208.984 người, trong đó dân số nam là 47.881.061 người (chiếm 49,8%) và dân số nữ là 48.327.923 người (chiếm 50,2%). Với kết quả này, Việt Nam là quốc gia đông dân thứ 15 trên thế giới.[82] Năm 2021, dân số ước tính vào khoảng 98 triệu người[74]. Năm 2022, dân số ước tính vào khoảng 99,46 triệu người[8]. Việt Nam có 54 dân tộc trong đó người Kinh chiếm đa số với gần 86%, tập trung ở những miền châu thổ và đồng bằng ven biển. Các dân tộc thiểu số, trừ người Hoa, người Chăm và người Khmer, phần lớn tập trung ở các vùng miền núi và cao nguyên. Trong số này, đông dân nhất là các dân tộc Tày, Thái, Mường,... người Ơ Đu có số dân ít nhất. Có các dân tộc mới di cư vào Việt Nam vài trăm năm trở lại đây như người Hoa. Người Hoa và người Ngái là hai dân tộc duy nhất có dân số giảm giai đoạn 1999 – 2009.
Theo điều tra của Tổng cục thống kê thì vùng đông dân nhất Việt Nam là đồng bằng sông Hồng với khoảng 22,5 triệu người, kế tiếp là bắc Trung bộ và duyên hải nam Trung bộ với khoảng 20,1 triệu người, thứ 3 là Đông Nam bộ với 17,8 triệu người, thứ 4 là đồng bằng sông Cửu Long với khoảng 17,2 triệu người. Vùng ít dân nhất là Tây Nguyên với khoảng 5,8 triệu người. Theo điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ (IPS) 2019 thì 34,4% dân số Việt Nam đang sinh sống tại thành thị và 65,6% cư trú ở nông thôn.[83] Về tỉ số giới tính trung bình vào năm 2019 là 99,1 nam/100 nữ. Theo nhận xét của tờ The Economist, mức độ giảm dân số do sinh suất tụt giảm tạo ra viễn cảnh lão hóa ở Việt Nam với tỉ lệ người cao niên hơn 60 tuổi dự đoán sẽ tăng từ 12% (2018) lên 21% (2040). Đỉnh dân số lao động của Việt Nam là vào năm 2013, sau đó sẽ giảm. Tỉ lệ trẻ/già bị cho là gây chao đảo về tài chính để cung cấp dịch vụ y tế và cấp dưỡng khi 90% người cao niên không có khoản tiết kiệm nào cả khi ngân sách nhà nước chỉ phụ cấp cho người hơn 80 tuổi với bình quân vài USD/tuần.[84][85]
^Một số thành phố được mở rộng hoặc thành lập sau tổng điều tra năm 2019, bao gồm Thủ Đức, Thuận An, Huế, Dĩ An, Vinh, Tân Uyên, Thanh Hóa, Thủy Nguyên, Bắc Giang, Hạ Long.
^Không bao gồm dân số quy đổi (tính cả những người tạm trú).
Việt Nam tuy là thành viên của Cộng đồng Pháp ngữ, nhưng tiếng Pháp từ vị thế ngôn ngữ chính thức của chế độ thuộc địa đã suy yếu nhanh chóng và nhường chỗ cho tiếng Anh làm ngoại ngữ chính. Với mối quan hệ với các nước phương Tây đã thay đổi và những cải cách trong quản trị về kinh tế và giáo dục, tiếng Anh có thể sử dụng như ngôn ngữ thứ hai và việc học tiếng Anh giờ đây bắt buộc tại hầu hết các trường học bên cạnh hoặc thay thế cho tiếng Pháp.[92][93]Tiếng Nga, tiếng Đức được giảng dạy trong một số ít trường trung học phổ thông.[94]Tiếng Nhật, tiếng Trung và tiếng Hàn cũng trở nên thông dụng hơn khi mối quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia Đông Á được tăng cường.[95][96][97]
Việt Nam là địa điểm có các đầu dây mại dâm, ma túy.[101] Việt Nam chịu ảnh hưởng từ những địa danh buôn bán ma túy như Tam giác vàng và Trăng lưỡi liềm vàng. Theo một số quan chức nhận xét thì các hoạt động buôn bán ma túy càng ngày càng tinh vi và phức tạp.[101] Việt Nam tham gia các hội nghị quốc tế bàn thảo vấn đề trên như "Hội nghị quốc tế phòng, chống ma túy, khu vực nhóm công tác Viễn Đông" do mình chủ trì với sự hợp tác của 19 nước lân cận. Năm 2012, cả nước có ước tính khoảng 170 nghìn người nghiện ma túy.[101] Theo sự phát triển của kinh tế – xã hội, tội phạm có xu hướng tăng. Các vấn đề liên quan đến cá độ trong hoạt động thể thao rơi phần nhiều ở bóng đá.[102] một loại hình tội phạm khác đó là tham nhũng với một số vụ án như PMU 18, Vinashin, Việt Á, chuyến bay giải cứu. Việt Nam hiện vẫn duy trì án tử hình.
Về cơ sở hạ tầng, tính đến năm 2010, toàn Việt Nam có 1.030 bệnh viện, 44 khu điều dưỡng phục hồi chức năng, 622 phòng khám đa khoa khu vực;[109] với khoảng 246.300 giường bệnh.[110] Bên cạnh các cơ sở y tế nhà nước đã bắt đầu hình thành một hệ thống y tế tư nhân bao gồm 19.895 cơ sở hành nghề y, 14.048 cơ sở hành nghề dược, 7.015 cơ sở hành nghề y học cổ truyền, 5 bệnh viện tư có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần giảm quá tải ở các bệnh viện nhà nước.[111] Mạng lưới y tế cơ sở của Việt Nam đã có 80% số thônbản có nhân viên y tế hoạt động, 100% số xã có trạm y tế trong đó gần 2/3 xã đạt chuẩn quốc gia.[112]
Về nhân lực trong ngành, Việt Nam hiện có hệ thống các trường đại học y, dược phân bổ trên cả nước. Mỗi năm có hàng nghìn bác sĩ và dược sĩ đại học tốt nghiệp ra trường. Ngoài ra còn có hệ thống các trường đào tạo kỹ thuật viên trung học y, dược, nha tại các địa phương. Số lượng cán bộ nhân viên ngành y tế đã có 250.000 người trong đó có 47.000 người có trình độ đại học các loại.[111]
Một số tổ chức quốc tế tài trợ vốn ODA và một số Tổ chức phi chính phủ (NGO) đã hỗ trợ cho Ngành Y tế của Việt Nam, tính đến năm 2010, Bộ Y tế Việt Nam đang quản lý 62 dự án ODA và trên 100 dự án NGO với tổng kinh phí hơn một tỷ USD, các dự án phân bố ở các vùng miền.[113] Y tế Việt Nam có tham nhũng ở một số cấp độ, có thể tìm thấy trong cả 3 lĩnh vực quản lý nhà nước, dịch vụ tại cơ sở y tế và quản lý bảo hiểm y tế.[114]
Thống kê năm 2016, người Việt có tuổi thọ trung bình 75,6 tuổi, đứng thứ 2 khu vực Đông Nam Á, chỉ sau Singapore.[115]
Về khía cạnh truyền thống, văn hóa chủ lưu của người Việt được coi là thuộc vùng văn hóa Á Đông (cùng với Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản). Với lịch sử hàng nghìn năm, từ văn hóa bản địa thời Hồng Bàng đến những ảnh hưởng của Trung Quốc và Đông Nam Á đến những ảnh hưởng của Pháp thế kỷ 19, phương Tây trong thế kỷ 20 và toàn cầu hóa từ thế kỷ 21, Việt Nam đã có những thay đổi về văn hóa theo các thời kỳ lịch sử.
Áo dài là trang phục truyền thống phổ biến ở Việt Nam, thường được nữ giới mặc trong những dịp như đám cưới và lễ hội. Áo dài trắng là đồng phục bắt buộc cho nữ sinh trung học ở một số trường trung học phổ thông tại Việt Nam, ít nhất là phải mặc trong tiết Chào cờ. một số ví dụ khác về trang phục tại Việt Nam bao gồm áo giao lĩnh, áo tứ thân, áo ngũ cốc, yếm, áo bà ba, áo gấm, áo Nhật Bình,... Mũ nón bao gồm nón lá và nón quai thao. Các trang phục của người dân tộc thiểu số cũng có thể sử dụng.
Ẩm thực Việt Nam có sự kết hợp của 5 yếu tố cơ bản: cay, chua, đắng, mặn và ngọt. Nước mắm, nước tương,... là một trong những nguyên liệu tạo hương liệu trong món ăn.
Phong cách nấu ăn trong ẩm thực Việt Nam có thể có các nguyên liệu tươi hơn, dùng dầu ít hơn và phụ thuộc hơn vào rau thơm, rau quả.
Một đặc điểm để phân biệt ẩm thực Việt Nam với các nước khác là ẩm thực Việt Nam chú trọng ăn ngon, đôi khi không đặt mục tiêu hàng đầu là ăn bổ. Bởi vậy trong hệ thống có thể có ít hơn những món cầu kỳ, hầm nhừ, ninh kỹ như trong ẩm thực Trung Quốc cũng như không thiên về bày biện có tính thẩm mỹ cao như trong ẩm thực Nhật Bản mà thiên về phối trộn gia vị hoặc sử dụng những nguyên liệu dai, giòn (ví dụ như chân cánh gà, phủ tạng động vật, trứng vịt lộn,...).
^Nash, Gary B., Julie Roy Jeffrey, John R. Howe, Peter J. Frederick, Allen F. Davis, Allan M. Winkler, Charlene Mires, and Carla Gardina Pestana. The American People, Concise Edition Creating a Nation and a Society, Combined Volume (ấn bản thứ 6). New York: Longman, 2007.
^Robert C. Doyle (2010). The Enemy in Our Hands: America's Treatment of Enemy Prisoners of War from the Revolution to the War on Terror. Đại học Kentucky. tr. 269. ISBN 978-0-8131-2589-3.
^THIÊN THANH (ngày 26 tháng 11 năm 2017). “Đối diện nguy cơ về dân số”. Báo Nhân Dân. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2019.
^“Số giường bệnh (chưa kể cơ sở tư nhân)” (Thông cáo báo chí). Tổng cục Thống kê (Việt Nam). ngày 6 tháng 9 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2012.