Bài này chứa trích dẫn quá nhiều hoặc quá dài cho một bài viết bách khoa. Vui lòng cải thiện bài viết bằng cách lược bớt các trích dẫn hoặc tóm tắt lại ý của người nói một cách trung thực và trung lập, nhớ dẫn nguồn đầy đủ. Hãy cân nhắc dời trích dẫn sang Wikiquote và các đoạn trích tác phẩm sang Wikisource.(tháng 3/2024)
Bài viết này có một danh sách các nguồn tham khảo, nhưng vẫn chưa đáp ứng khả năng kiểm chứng được bởi thân bài vẫn còn thiếu các chú thích trong hàng. Hãy giúp cải thiện bài viết này bằng cách bổ sung các chú thích nguồn cho các nội dung tương ứng.(tháng 3/2024) (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này)
Ngô Quyền (chữ Hán: 吳權; 17 tháng 4 năm 898 – 14 tháng 2 năm 944), còn được biết đến với tên gọi Tiền Ngô Vương (前吳王) là vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Năm 938, ông là người lãnh đạo nhân dân đánh bại quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng, chính thức kết thúc gần một ngàn năm Bắc thuộc, mở ra một thời kì độc lập lâu dài của Việt Nam. Sau chiến thắng này, ông lên ngôi vua, lập ra nhà Ngô, trị vì từ năm 939 đến năm 944.
Ngô Quyền sinh ngày 12 tháng 3 năm Đinh Tỵ (17 tháng 4 năm 898) trong một dòng họ hào trưởng có thế lực. Cha là Ngô Mân làm chức châu mục Đường Lâm.[3] Ngô Quyền được sử sách mô tả là bậc anh hùng tuấn kiệt, "có trí dũng".[4]
Khi Ngô Quyền vừa mới sinh có ánh sáng lạ đầy nhà, dung mạo khác thường, có 3 nốt ruồi ở lưng, thầy tướng cho là lạ, bảo có thể làm chủ một phương, nên mới đặt tên là Quyền. Ngô Quyền lớn lên, khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, có trí dũng, sức có thể nâng được vạc bằng đồng.
Một hào trưởng người Ái Châu (thuộc Thanh Hóa ngày nay) là Dương Đình Nghệ nuôi 3000 con nuôi, mưu đồ khôi phục. Ngô Quyền lớn lên làm nha tướng cho Dương Đình Nghệ, được Dương Đình Nghệ gả con gái cho và giao quyền cai quản Ái châu, đất bản bộ của họ Dương. Năm 931, Dương Đình Nghệ phát binh từ Thanh Hóa ra Bắc đánh đuổi quân Nam Hán, đánh bại Lý Tiến và quân cứu viện do Trần Bảo chỉ huy, chiếm giữ bờ cõi nước Việt, xưng là Tiết độ sứ. Năm 937, hào trưởng đất Phong Châu là Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ, trở thành vị Tĩnh Hải quânTiết độ sứ cuối cùng trong thời kì Tự chủ. Nhưng Công Tiễn lại không có chỗ dựa chính trị vững chắc, hành động tranh giành quyền lực của ông bị phản đối bởi nhiều thế lực địa phương và thậm chí nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng. Bị cô lập, Công Tiễn vội vã cầu cứu nhà Nam Hán. Ngô Quyền nhanh chóng tập hợp lực lượng, kéo quân ra Bắc, giết chết Kiều Công Tiễn rồi chuẩn bị quyết chiến với quân Nam Hán. Thắng lợi của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng vào năm 938 đã đặt dấu chấm hết cho mọi âm mưu xâm lược Tĩnh Hải quân của nhà Nam Hán, đồng thời cũng kết thúc thời kì Bắc thuộc của Việt Nam. Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa, lập ra nhà Ngô. Ngô Vương qua đời ở tuổi 47, trị vì được 6 năm. Sau cái chết của ông, nhà Ngô suy yếu nhanh chóng, không khống chế được các thế lực cát cứ địa phương và sụp đổ vào năm 965.
Tháng 10/938 Ngô Quyền truy sát Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn chạy sang Trung Quốc cầu cứu quân Nam Hán. Lợi dụng cơ hội đó, Nam Hán kéo sang xâm lược Tĩnh Hải quân lần hai.
Năm 938, sau khi Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền được tin về việc phản nghịch của Công Tiễn và thấy việc Công Tiễn quy phục Nam Hán là nguy hại cho cuộc tự chủ mà họ Khúc và Dương Đình Nghệ cố gắng xây nền móng nên phát binh từ Ái châu ra đánh Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn sai sứ sang đút lót để cầu cứu với nhà Nam Hán. Sách An Nam chí lược viết rằng: Công Tiễn bị Ngô Quyền vây, sức yếu bị thua mới cầu cứu nhà Nam Hán.[8] Vua Nam Hán là Lưu Cung nhân Giao Chỉ có loạn muốn chiếm lấy. Lưu Cung phong cho con mình là Vạn vương Lưu Hoằng Tháo làm Giao Vương, đem quân cứu Kiều Công Tiễn. Nhưng khi quân Nam Hán chưa sang, mùa thu năm 938, Ngô Quyền đã giết được Kiều Công Tiễn.[9][10]
Lưu Cung tự làm tướng, đóng ở Hải Môn để làm thanh viện. Lưu Cung hỏi kế ở Sùng Văn sứ là Tiêu Ích, Tiêu Ích nói:
"Nay mưa dầm đã mấy tuần, đường biển thì xa xôi nguy hiểm, Ngô Quyền lại là người kiệt hiệt, không thể khinh suất được. Đại quân phải nên thận trọng chắc chắn, dùng nhiều người hướng đạo rồi sau mới nên tiến".
Song Lưu Cung không nghe theo.
Ngô Quyền nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, bảo các tướng tá rằng:
Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát.[9]
Ngô Quyền định kế rồi, bèn cho đóng cọc ở hai bên cửa biển. Khi nước triều lên, Ngô Quyền sai người đem thuyền nhẹ ra khiêu chiến rồi rút thuyền về để dụ quân Nam Hán đuổi theo. Hoằng Tháo quả nhiên tiến quân vào. Khi binh thuyền đã vào trong vùng cắm cọc, nước triều rút, cọc nhô lên, Ngô Quyền bèn tiến quân ra đánh, ai nấy đều liều chết chiến đấu. Quân Nam Hán không kịp sửa thuyền mà nước triều rút xuống rất gấp, thuyền đều mắc vào cọc mà lật úp, rối loạn tan vỡ, quân lính chết đuối quá nửa. Ngô Quyền thừa thắng đuổi đánh, bắt được Hoằng Tháo giết đi. Vua Nam Hán Cao Tổ (Lưu Cung) đồn trú ở cửa biển để cứu trợ nhưng không làm gì được; thương khóc, thu nhặt quân lính còn sót rút về.[9]
Lưu Cung tham đất đai của người, muốn mở rộng bờ cõi, đất đai chưa lấy được mà đã hại mất đứa con của mình và hại cả nhân dân, tức như Mạnh Tử nói: "Đem cái mình không yêu mà hại cái mình yêu" vậy chăng?
Lưu Nghiễm (Lưu Cung) ngấp ngó Giao Châu, thừa lúc Đình Nghệ mới mất, cậy có quân ứng viện của Công Tiễn, chắc rằng có thể đánh một trận phá được Ngô Quyền, nhân thế lấy được nước Nam dễ như lấy đồ trong túi vậy. Nếu không có một trận đánh to để hỏa nhuệ khí của Lưu Nghiễm, thì cái tình hình ngoại thuộc lại dần dần thịnh lên, cho nên trận đánh ở Bạch Đằng là cái căn bản khôi phục quốc thống đó. Sau này Đinh, Lê, Lý, Trần còn phải nhờ dư liệt ấy. Võ công hiển hách của Ngô Quyền, tiếng thơm nghìn đời, đâu có phải chỉ khoe khoang một lúc bấy giờ mà thôi.
Ngô Quyền lên ngôi ngày 10 tháng 1 năm Kỷ Hợi (tức ngày 1 tháng 2 năm 939).[12] Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền xưng là Ngô Vương, xây dựng nhà nước tự chủ, trở thành vị vua sáng lập ra nhà Ngô, sách Đại Việt Sử ký Toàn thư gọi Ngô Quyền là Tiền Ngô Vương. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư chép rằng: Mùa xuân, vua bắt đầu xưng vương, lập Dương thị làm hoàng hậu, đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục. Sách Việt sử tiêu án chép: Vương giết Công Tiễn, phá Hoằng Tháo, tự lập làm vua, tôn Dương thị làm Hoàng hậu, đặt đủ 100 quan, dựng ra nghi lễ triều đình, định các sắc áo mặc, đóng đô Cổ Loa thành, làm vua được 6 năm rồi mất.
Về lãnh thổ, học giả Đào Duy Anh cho rằng các triều đại phong kiến đầu tiên cai trị 8 châu: Giao, Lục, Phong, Trường, Ái, Diễn, Hoan, Phúc Lộc nằm trên đất Giao Châu cũ. Ngô Quyền chỉ có quyền lực ở các châu miền trung du và miền đồng bằng Bắc bộ, vùng Thanh Nghệ; còn miền thượng du là các châu ky my (châu tự trị, chỉ phải cống nạp), của nhà Đường trước kia, do các tù trưởng nắm giữ mà độc lập.[13]
Nhà Đường cai trị nước Việt, dùng huyện Tống Bình và xây thành Tống Bình làm trị sở của họ, tức phần đất thuộc Giao Châu, bên sông Tô Lịch (Hà Nội ngày nay). Sau khi lên ngôi, Ngô Quyền không đóng đô ở trị sở cũ của nhà Đường như họ Khúc hay Dương Đình Nghệ nữa mà chuyển kinh đô lên Cổ Loa thuộc Phong Châu (thuộc huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên cũ).[14] Lý giải cho việc Ngô Quyền không chọn Đại La sầm uất và có truyền thống nhiều thế kỷ là trung tâm chính trị trước đó, các sử gia cho rằng có 2 nguyên nhân: tâm lý tự tôn dân tộc và ý thức bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước từ kinh nghiệm cũ để lại:
Ý thức dân tộc trỗi dậy, tiếp nối quốc thống xưa của nước Âu Lạc xưa,[15] quay về với kinh đô cũ thời Âu Lạc, biểu hiện ý chí đoạn tuyệt với Đại La do phương Bắc khai lập.[13][16]
Đại La trong nhiều năm là trung tâm cai trị của các triều đình Trung Quốc đô hộ Việt Nam, là trung tâm thương mại sầm uất nhiều đời chủ yếu của các thương nhân người Hoa nắm giữ. Đại La do đó là nơi tụ tập nhiều người phương Bắc, từ các quan lại cai trị nhiều đời, các nhân sĩ từ phương Bắc sang tránh loạn và các thương nhân. Đây là đô thị mang nhiều dấu vết cả về tự nhiên và xã hội của phương Bắc, và thế lực của họ ở Đại La không phải nhỏ. Do đó lực lượng này dễ thực hiện việc tiếp tay làm nội ứng khi quân phương Bắc trở lại, điển hình là việc Khúc Thừa Mỹ nhanh chóng thất bại và bị Nam Hán bắt về Phiên Ngung. Rút kinh nghiệm từ thất bại của Khúc Thừa Mỹ, Ngô Quyền không chọn Đại La.
Theo Tạ Chí Đại Trường: Chiếm giữ Đại La xong, Ngô Quyền không đóng đô nơi phủ trị cũ mà lại tìm một vị trí bên lề để canh chừng. Tại sao? Vì còn tự ti thấy mình chưa đủ sức thay thế chủ cũ? Hay vì cái thế Đại La trống trải trong tầm sông nước dễ dàng cho sự xâm lấn của Nam Hán so với Cổ Loa khuất lấp hơn một ít mà vẫn còn có ngôi thành Kén của Mã Viện làm thế đương cự? Dù sao thì sự từ chối Đại La cũng là một dấu vết co cụm để tính chất địa phương nổi lên không những chỉ trong gia đình ông mà còn thấy trong cách ứng xử của các tập đoàn quyền lực khác ở phủ Đô hộ cũ nữa.[17]
Dương Tam Kha cướp ngôi cháu, tự lập mình làm vua, xưng là Dương Bình Vương, lấy Ngô Xương Văn, con thứ hai của Ngô Quyền làm con nuôi. Ngô Xương Văn sau dẫn quân quay lại lật đổ Dương Tam Kha. Năm 950, Ngô Xương Văn tự xưng làm Nam Tấn Vương, đóng đô ở Cổ Loa. Ngô Xương Văn cho người đón anh trai Ngô Xương Ngập đang trốn ở Nam Sách trở về. Ngô Xương Ngập cũng làm vua, tự xưng là Thiên Sách Vương (951–954). Từ năm 951 đến 956, lần lượt các thế lực họ Đinh, họ Dương và hoàng tộc nhà Ngô cát cứ, chống đối với triều đình Cổ Loa, mở đầu cho loạn 12 sứ quân.
Nhận định
“
Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân[19] của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đế, đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước Việt ta, ngõ hầu đã nối lại được.
Ngô Sĩ Liên viết rằng mưu tài đánh giỏi, làm nên công dựng lại cơ đồ, đứng đầu các vua đồng thời cho rằng cách thức cai trị của ông có quy mô của bậc đế vương. Phan Bội Châu tôn vinh ông là "vua Tổ Phục hưng dân tộc".[2]
“
Ngô Tiên Chúa giết được nghịch thần Công Tiễn, phá được giặc mạnh Hoằng Thao, đặt ra cấp bậc các quan văn võ, định chế độ luật lệ y phục, thực là bậc tài giỏi cứu đời. Song ký thác không được người tốt, để lại tai vạ cho con.
Theo Trần Trọng Kim chép trong Việt Nam sử lược: Ngô Quyền trong thì giết được nghịch thần, báo thù cho chủ, ngoài thì phá được cường địch, bảo toàn cho nước, thật là một người trung nghĩa lưu danh thiên cổ, mà cũng nhờ có tay Ngô Quyền, nước Nam ta mới cởi được ách Bắc thuộc hơn một nghìn năm, và mở đường cho Đinh, Lê, Lý, Trần về sau này được tự chủ ở cõi Nam vậy.[21]
"Ngô Quyền gặp được ngụy triều Nam Hán là một nước nhỏ, Hoằng Tháo là thằng hèn kém, nên mới có được trận thắng trên sông Bạch Đằng. Đó là một việc may, có gì đáng khen. Nếu gặp phải tay Trần Bá Tiên, mà bảo rằng Ngô Quyền không phải theo gót Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương, thì ít có lắm!".
Đại Việt sử ký toàn thư chỉ ghi quê Ngô Quyền và Phùng Hưng là Đường Lâm, không chú thích cụ thể. Trong khi Việt điện u linh và Lĩnh nam chích quái viết thời Trần cho thấy nhiều mối liên hệ về Đường Lâm như: sông Phúc Lộc[22] (tức Phúc Thọ), gần Đỗ Động[23] (tức Quốc Oai, Thanh Oai) và gần Phong châu[24] (tức Vĩnh Tường, Việt Trì). Còn sử liệu Trung Quốc cho biết Đường Lâm được lập dưới thời Đường với những điểm chính:[25][26][27][28][29][30]
Do Thứ sử Trí châu thu phục thêm dân gần Côn Minh, Bắc Lâu (tức tây bắc Việt Nam và Vân Nam, Trung Quốc) lập nên.
Ở gần Trường châu (tức Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa) và dân ta nổi dậy chiếm lấy, nên hai châu cùng bị bỏ.
Phong tục giống Ái châu (tức Thanh Hóa) và đi mất hai ngày tới Hoan châu (tức Nghệ An).
Hiện có bốn luồng ý kiến tranh luận về Đường Lâm là:
Châu Ái (tức Thanh Hóa) do Lê Tắc viết ở thế kỷ 14.[31] Hiện không có bất kỳ di tích hay chuyện kể nào liên quan tới Ngô Quyền dù ông là con rể vùng này.
Mỹ Lương và Hoài An (tức vùng núi Thạch Thất, Quốc Oai, Chương Mỹ, Mỹ Đức, Ứng Hòa, Lương Sơn, Kim Bôi; nằm giữa Hà Nội và Hòa Bình) thời Trần là huyện Đại Đường;[32] do Ngô Thì Sĩ và Phan Huy Chú xác định vào thế kỷ 18. Hiện có nhiều đền thờ Ngô Quyền, Phùng Hưng và đặc biệt có hai làng hiếm hoi còn thờ Ngô Xương Xí và nhận nơi đây cũng là Bình Kiều.[a]
Phía tây nam Hà Tĩnh, do Đào Duy Anh[34] viết vào thế kỷ 20. Hiện cũng không có dấu vết gì liên quan tới Phùng Hưng và Ngô Quyền, dù nơi đây vẫn có những câu chuyện lưu truyền về thân thế Mai Hắc Đế hay tuổi thơ Đinh Bộ Lĩnh.
Gia đình
Vợ
Dương hậu: Bà là con gái của Dương Đình Nghệ, kết duyên cùng với Ngô Quyền khi ông trở thành nha tướng của Dương Đình Nghệ, một cuộc hôn nhân mang nhiều ý nghĩa liên minh chính trị. Một số tài liệu ghi rằng bà tên là Dương Như Ngọc hoặc Dương Thị Vy (thờ ở đình làng Nguyễn Xá (trước là Ngô Xá) xã Bồ Đề, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam) nhưng theo nhà sử học Lê Văn Lan thì đấy chỉ là một cái tên do người đời sau "đặt", để "phân biệt" với bà Dương hậu khác là bà Dương Vân Nga, bản thân cái tên Dương Vân Nga cũng chỉ là cái tên trong dân gian mà hậu thế "đặt" cho bà. Chính sử chỉ gọi bà là Dương thị.
Đỗ phi: Bà Đỗ Thị Sa là người ở làng Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội hiện nay. Trước kia có đền thờ bà ở gần cầu Tây Dục Tú nhưng nay đã bị phá. Nhà thờ họ Đỗ ở thôn Hậu Dục Tú vẫn còn đôi câu đối nói về cuộc hôn phối giữa bà và Ngô Quyền mang ý nghĩa liên minh chính trị Ngô - Đỗ. Nhưng theo Gia phả họ Đỗ tại đây bà là Cung phi vương phủ tức là phi của một vị chúa nào đó sống cách thời Ngô Quyền chừng 700 năm chứ không phải phi của Ngô Quyền. Kết quả nghiên cứu nói trên do nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Chiến thực hiện và báo cáo trong Hội thảo khoa học "Ngô Quyền với Cổ Loa", sau đó được in thành sách với tên như trên vào năm sau, 2014 do Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam ấn hành.
Con cái
Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập: Là con trai trưởng của Ngô Quyền, được phỏng đoán sinh ra vào khoảng thập niên thứ hai của thế kỉ 10. Tiền Ngô Vương truyền ngôi cho Ngô Xương Ngập nhưng bị Dương Tam Kha cướp ngôi, Xương Ngập phải bỏ trốn. Năm 950, Dương Tam Kha bị lật đổ, ông được em là Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn đón về, hai anh em cùng làm vua. Năm 954 ông mất.
Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn: Là con trai thứ hai của Ngô Quyền, mẹ là Dương hậu. Ông đã làm đảo chính, phế truất Dương Bình Vương, trung hưng lại cơ nghiệp nhà Ngô. Trị vì cùng với anh là Thiên Sách Vương từ năm 950 đến năm 954, sau đó ông một mình trị nước từ năm 955 đến năm 965 thì mất. Nhà Ngô sụp đổ.
Ngô Nam Hưng: Là con trai của Ngô Quyền, mẹ là Dương hậu. Không được sử sách đề cập gì thêm.
Ngô Càn Hưng: Là con trai của Ngô Quyền, mẹ là Dương hậu. Không được sử sách đề cập gì thêm.
Tưởng niệm
Hiện nay ở làng Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội) có đền và lăng thờ Ngô Quyền. Ngoài ra còn có gần 50 nơi khác có liên quan thờ Ngô Quyền và các tướng lĩnh thuộc triều đại Ngô Vương, trong đó nhiều nhất thuộc vùng đất Hải Phòng (34 di tích), Thái Bình (3 di tích), Hà Nam (1 di tích), Phú Thọ (1 di tích), Hưng Yên (3 di tích).[35]
Đền thờ và lăng Ngô Quyền ở thôn Cam Lâm, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây là một địa chỉ du lịch và tâm linh nổi tiếng của làng cổ này. Đền được xây dựng bằng gạch, lợp ngói mũi hài, quay về hướng đông, có tường bao quanh. Qua tam quan, hai bên có tả mạc, hữu mạc, mỗi dãy nhà gồm năm gian nhỏ. Đại bái có hoành phi khắc bốn chữ "Tiền Vương bất vọng". Ngày nay tòa đại bái được dùng làm phòng trưng bày về thân thế, sự nghiệp của Ngô Quyền và nhà triển lãm chiến thắng Bạch Đằng. Hậu cung kiến trúc theo kiểu chữ đinh (丁), có tượng Ngô Quyền, đã được tu tạo vào năm 1877. Lăng Ngô Quyền có mái che, cao 1,5 mét, bia đá được khắc thời Tự Đức, có ghi bốn chữ Hán "Tiền Ngô Vương lăng". Tiền Ngô vương lăng đã được trùng tu năm 2013 với vốn đầu tư trùng tu lăng là 29 tỉ đồng, trong đó gia tộc họ Ngô đóng góp 30%.[36]
Trước năm 1945, đền thờ Ngô Quyền có hai mẫu ruộng do ba xóm Đông, Tây, Nam của làng Cam Lâm thay nhau cấy lúa để sửa soạn tế lễ. Lễ vật gồm một con lợn nặng 50 kg, 30 đấu gạo nếp để thổi xôi, trầu cau, hương hoa… Trong hai ngày tế lớn (14 và 15 tháng 8 âm lịch), làng cử một thủ từ và tám tuần phiên để canh gác nhà thờ.[37]
Tại thành phố Hải Phòng có nhiều di tích gắn liền với Ngô Quyền cùng với chiến thắng năm 938. Tương truyền trước khi đánh quân Nam Hán, Ngô Quyền đã đóng đại bản doanh, chiêu binh tập mã ở khu vực Từ Lương Xâm (nay thuộc quận Hải An Hải Phòng), khu vực Vườn Quyến (quận Ngô Quyền) tương truyền xưa kia từng là nơi Ngô Quyền cho binh sĩ tập luyện để chuẩn bị chiến đấu, tại đây Ngô Quyền đã cho bắc một cây cầu gọi là cầu Gù nối liền doanh trại với làng Đông Khê để thuận tiện cho việc đi lại và tiếp tế của nghĩa quân và nhân dân. Nhân dân các làng quanh khu vực nghĩa quân đóng trại cũng đã hăng hái xung phong làm quân cận vệ và tham gia vào công việc chuẩn bị, gọt đẽo và đóng những cọc gỗ xuống lòng sông Bạch Đằng để đánh quân Nam Hán. Hằng năm vào trung tuần tháng hai âm lịch, đình, miếu các làng ở quanh khu vực này đều mở hội, cúng tế rất linh đình, ngoài ra còn có hát ả đào, hát chèo, múa hạc gỗ và nhiều trò dân gian khác.[37] Quanh khu vực hạ lưu sông Bạch Đằng có đến hơn 30 đền miếu thờ Ngô Quyền và các tướng của ông, trong đó nhiều nhất là ở thành phố Hải Phòng.
Các cơ sở thờ tự Ngô Quyền
Tiền Ngô Vương lăng (Cam Lâm, Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội).
Đền Già (Dị Chế, Tiên Lữ, Hưng Yên): thờ Ngô Quyền và Hoàng hậu Dương Thị Vy.
Đền Vương (Thị trấn Vương, Tiên Lữ, Hưng Yên): thờ Ngô Quyền và Hoàng hậu Dương Thị Vy.
Đình làng Nghĩa Chế (Dị Chế, Tiên Lữ, Hưng Yên): thờ Ngô Quyền, Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn.
Đình Nam Pháp, phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, tp Hải Phòng: Thờ Ngô Vương Quyền
Đình Hàng Kênh, phường Hàng Kênh, quận Lê Chân, tp Hải Phòng: Thờ Ngô Vương Quyền
Miếu Trung Hành, phường Đằng Lâm, quận Hải An, tp Hải Phòng: Thờ Ngô Vương Quyền
Miếu Xâm Bồ, phường Nam Hải, quận Hải An, tp Hải Phòng: Thờ Ngô Vương Quyền. Ngoài ra các di tích đình miếu thuộc các làng cổ tại Quận Hải An, tp Hải Phòng đều thờ Đức Ngô Vương Thiên Tử làm thánh thành hoàng.
^Đại Việt Sử ký Toàn thư; Soạn giả Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên...; Dịch giả: Viện Sử học Việt Nam; Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, 1993; bản điện tử, trang 53, 54.
^Đất nước Việt Nam qua các đời, Nhà Xuất bản Nhã Nam, tr. 130, năm 2016.
^An Nam chí lược, soạn giả Lê Tắc; Dịch giả: Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam; Nhà Xuất bản: Viện Đại học Huế 1961; bản điện tử, trang 42.
^ abcdĐại Việt Sử ký Toàn thư, Soạn giả: Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên...; Dịch giả: Viện Sử học Việt Nam; Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, 1993; bản điện tử, trang 53.
^Đất nước Việt Nam qua các đời, Nhà Xuất bản Nhã Nam, tr. 131, 132, năm 2016.
^Tạ Chí Đại Trường (2009), Sơ thảo: Bài sử khác cho Việt Nam, ấn bản điện tử; trang 68, 69.
^Thiền Uyển tập anh; soạn giả Kim Sơn - Thiền phái Trúc Lâm; Dịch giả Lê Mạnh Thát, Nhà Xuất bản Đại học Vạn Hạnh - Saigon; 1976; bản điện tử, trang 21.
^Đây là cách nói phóng đại, theo sử sách đạo quân này chỉ có 2 vạn người.
^ ab“Bản sao đã lưu trữ”. Báo Kinh tế & Đô thị điện tử. 26 tháng 11 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2013. Đã định rõ hơn một tham số trong |tên bài= và |title= (trợ giúp)
^Đình Phú Duy, xã An Tiến, huyện Mỹ Đức và Đình Phí Trạch, xã Phương Tú, huyện Ứng Hòa cùng thờ Ngô Xương Xí. Sử chép ông cát cứ tại Bình Kiều nhưng cũng không nói cụ thể ở đâu.
Tham khảo
Nhiều tác giả (1972), Đại Việt Sử ký Toàn thư, Cao Huy Giu phiên dịch, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội.
Nhiều tác giả (1991), Lịch sử Việt Nam 1; Nhà Xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp.
Tạ Chí Đại Trường (2009), Sơ thảo: Bài sử khác cho Việt Nam, ấn bản điện tử.
Trần Quốc Vượng (2009), Hà Nội như tôi hiểu; Nhà Xuất bản Thời đại.
Trần Quốc Vượng (2006), Đường Lâm - dưới góc nhìn địa-văn hóa-lịch sử; Tạp chí Di sản.
Trần Quốc Vượng (1967), Về quê hương của Ngô Quyền; Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử.
Đào Duy Anh (1964), Đất nước Việt Nam qua các đời; Nhà Xuất bản Khoa học.
Văn Tân (1966), Vài sai lầm về tài liệu của bộ "Đại Việt sử ký toàn thư"; Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử.
Lê Tắc (2009), An Nam chí lược, Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam thuộc Viện Đại học Huế dịch, Trần Kinh Hòa chỉ đạo và cố vấn, Hà Nội; Nhà Xuất bản Lao động, Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.
Lê Văn Lan (2004), Lịch sử Việt Nam - Hỏi và đáp; Báo Khoa học và Đời sống.
Khuyết danh (2001), Thiên Nam ngữ lục, Nguyễn Thị Lâm dịch; Nhà Xuất bản Văn học.
Nhiều tác giả (2010), Thăng Long – Hà Nội tuyển tập công trình nghiên cứu lịch sử; Nhà Xuất bản Hà Nội.
Ban Liên lạc họ Ngô Việt Nam (2003), Phả hệ họ Ngô Việt Nam; Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin.
2010 novel by Daniel Suarez This article has multiple issues. Please help improve it or discuss these issues on the talk page. (Learn how and when to remove these template messages) This article consists almost entirely of a plot summary. Please help improve the article by adding more real-world context. (July 2014) (Learn how and when to remove this template message) This article's plot summary may be too long or excessively detailed. Please help improve it by removing unnecessary details an...
Movable object used by actors on a stage or set For other uses, see Prop (disambiguation). A prop table backstage for the musical number Food, Glorious Food in the musical production, Oliver! A prop, formally known as a (theatrical) property,[1] is an object actors use on stage or screen during a performance or screen production.[2] In practical terms, a prop is considered to be anything movable or portable on a stage or a set, distinct from the actors, scenery, costumes, and ...
Adoption of a different religion or irreligion under duress For conversion of data types, see Type punning. Part of a series onDiscrimination Forms Institutional Structural Attributes Age Caste Class Dialect Disability Genetic Hair texture Height Language Looks Mental disorder Race / Ethnicity Skin color Scientific racism Rank Sex Sexual orientation Species Size Viewpoint Social Arophobia Acephobia Adultism Anti-albinism Anti-autism Anti-homelessness Anti-drug addicts Anti-intellectu...
Gulnoza MatniyazovaInformasi pribadiLahir10 Agustus 1994 (umur 29)Pichokchi, UzbekistanPekerjaanJudoka OlahragaNegaraUzbekistanOlahragaJudo Rekam medali Judo putri Mewakili Uzbekistan Kejuaraan Dunia 2021 Budapest Tim campuran Pesta Olahraga Asia 2018 Jakarta –70 kg Kejuaraan Judo Asia 2021 Bishkek –70 kg 2015 Kuwait City –70 kg 2019 Fujairah –70 kg 2013 Bangkok –70 kg 2016 Tashkent –70 kg IJF Grand Slam 2021 Tashkent –70 kg 2021 Tblisi –70 kg IJF Grand Pr...
Football match2019 Copa del Rey finalThe Estadio Benito Villamarín prior to the finalEvent2018–19 Copa del Rey Barcelona Valencia 1 2 Date25 May 2019 (2019-05-25)VenueBenito Villamarín, SevilleRefereeAlberto Undiano MallencoAttendance53,698← 2018 2020 → The 2019 Copa del Rey final was a football match played on 25 May 2019 that decided the winner of the 2018–19 Copa del Rey, the 117th edition of Spain's primary football cup (including two seasons where two ri...
German stage and film actor (1882–1955) Hans MierendorffMierendorff, c. 1920BornJohannes Reingold Mierendorff(1882-06-30)30 June 1882Rostock, German EmpireDied26 December 1955(1955-12-26) (aged 73)Eutin, West GermanyNationalityGermanOccupationActorYears active1916–1942 Hans Mierendorff (born Johannes Reingold Mierendorff; 30 June 1882 – 26 December 1955) was a German stage and film actor. Selected filmography A Night of Horror (1916) Vengeance Is Mine (1916) Hilde Warr...
Pour les articles homonymes, voir Gosling. Ryan Gosling Ryan Gosling en 2023. Données clés Nom de naissance Ryan Thomas Gosling Naissance 12 novembre 1980 (43 ans)London, Ontario (Canada) Nationalité Canadienne Profession ActeurProducteurRéalisateurScénaristeMusicienCompositeur Films notables N'oublie jamaisHalf NelsonDriveLa La LandBlade Runner 2049 Barbie Séries notables Hercule contre Arès modifier Ryan Gosling (/ˈɹaɪən ˈɡɑzlɪŋ/[1]) est un acteur, producteur, réalisa...
County in Kansas, United States County in KansasCowley CountyCountyCowley County National Bank Building (2013)Location within the U.S. state of KansasKansas's location within the U.S.Coordinates: 37°14′N 96°50′W / 37.233°N 96.833°W / 37.233; -96.833Country United StatesState KansasFoundedFebruary 26, 1867Named forMatthew CowleySeatWinfieldLargest cityArkansas CityArea • Total1,132 sq mi (2,930 km2) • Land1,126...
Major League Baseball team season 1912 New York GiantsNational League ChampionsLeagueNational LeagueBallparkPolo GroundsCityNew York CityOwnersJohn T. BrushManagersJohn McGraw ← 1911 Seasons 1913 → The 1912 New York Giants season was the franchise's 30th season. It involved the Giants winning the National League pennant. They were beaten by the Boston Red Sox in the World Series. Fred Snodgrass took most of the blame, as he dropped a fly ball in the deciding contes...
Questa voce sull'argomento film commedia è solo un abbozzo. Contribuisci a migliorarla secondo le convenzioni di Wikipedia. Segui i suggerimenti del progetto di riferimento. Ragazzi della marinaLyla Rocco e Silvio Noto in una sequenza del filmPaese di produzioneItalia Anno1958 Durata91 min Generecommedia RegiaFrancesco De Robertis, assistente alla regia Dore Modesti e Armando Dossena SoggettoDore Modesti, Dino Bartolo Partesano, Ranieri Cochetti SceneggiaturaFrancesco De Robertis Produ...
Questa voce sull'argomento competizioni ciclistiche è solo un abbozzo. Contribuisci a migliorarla secondo le convenzioni di Wikipedia. Segui i suggerimenti del progetto di riferimento. Parigi-Roubaix 2006Percorso della 104 edizioneEdizione104ª Data9 aprile PartenzaCompiègne ArrivoRoubaix Percorso259 km Tempo6h07'54 Media42,24 km/h Valida perUCI ProTour 2006 Ordine d'arrivoPrimo Fabian Cancellara Secondo Tom Boonen Terzo Alessandro Ballan Cronologia Edizione precedenteEdizi...
Portrait of Henry Erskine Johnston (1777–1830?), Scottish actor, in the title role of Douglas Douglas is a blank verse tragedy by John Home. It was first performed in 1756 in Edinburgh. The play was a big success in both Scotland and England for decades, attracting many notable actors of the period, such as Edmund Kean, who made his debut in it.[1] Peg Woffington played Lady Randolph, a part which found a later exponent in Sarah Siddons. The opening lines of the second act are prob...
American racing driver NASCAR driver Rob MorosoBorn(1968-09-26)September 26, 1968Madison, Connecticut, U.S.DiedSeptember 30, 1990(1990-09-30) (aged 22)Near Mooresville, North Carolina, U.S.[1]Cause of deathHighway automobile crashAchievements1989 NASCAR Busch Series championAwards1989 Busch Series Most Popular Driver1990 Winston Cup Series Rookie of the Year (posthumously)NASCAR Cup Series career29 races run over 3 yearsBest finish30th (1990)First race1988 Oakwood Homes 500 (Char...
Community college in Enfield, Connecticut, U.S. This article needs additional citations for verification. Please help improve this article by adding citations to reliable sources. Unsourced material may be challenged and removed.Find sources: Asnuntuck Community College – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (September 2014) (Learn how and when to remove this message) Asnuntuck Community CollegeTypePublic community collegeEstablished1969Parent i...
1990 studio album by Freddie HubbardTopsy - Standard BookStudio album by Freddie HubbardReleased1990RecordedDecember 10–11, 1989GenreJazzLabelAlfa RecordsFreddie Hubbard chronology Times are Changing(1989) Topsy - Standard Book(1990) Bolivia(1991) Professional ratingsReview scoresSourceRatingAllmusic[1]The Penguin Guide to Jazz Recordings[2] Topsy – Standard Book is an album by trumpeter Freddie Hubbard recorded in December 1989 and released on the Japanese Alfa Ja...
Voce principale: Trasporti a Milano. Servizio ferroviario suburbano di MilanoServizio di trasporto pubblicoTreno della linea S6 in sosta a Milano Porta VeneziaTipoServizio ferroviario suburbano Stati Italia Apertura2004 Ultima estensione2024 Linee impiegate12 GestoreTrenordATM Vecchi gestoriTrenitalia, LeNord, TiLo Mezzi utilizzatiTSRTAFE.464+carrozze PRE.464+carrozze 2PE.464+Carrozza VivaltoATR 115-125Caravaggio[1] N. stazioni e fermate124 Lunghezza403 km Passeggeri...
Branquignols / BranquignolLogo de l'afficheCadreType Troupe théâtralePays Francemodifier - modifier le code - modifier Wikidata Les Branquignols sont une troupe de comédiens créée par Robert Dhéry et Colette Brosset et active depuis les années 1940, jusqu'aux années 1970. Cette dénomination provient d'un néologisme semi-argotique combinant le terme « branque » signifiant insensé et le terme « guignol » désignant un personnage amusant voire ridicule. L...
Tea PartyTea Party Dimostranti del Tea Party riempiono il West Lawn del Campidoglio e il National Mall il 12 settembre 2009 Tipopolitica Fondazione19 luglio 2010 Scopodifesa del libero mercato Sede centrale Washington DC Lingua ufficialeinglese Modifica dati su Wikidata · Manuale Il Tea Party è un movimento politico schierato a difesa del libero mercato[1] e su posizioni conservatrici/libertarie,[2][3] emerso negli USA nel 2009 attraverso una serie di proteste l...
Betty William nel 1996 Premio Nobel per la pace 1976 Betty Williams (Belfast, 22 maggio 1943 – Belfast, 17 marzo 2020) è stata un'attivista britannica. Ha ricevuto, assieme a Mairead Corrigan, il Premio Nobel per la Pace nel 1976 per il suo ruolo di cofondatrice della Community of Peace People, un'organizzazione che si batteva per una soluzione pacifica della questione dell'Irlanda del Nord. In seguito è stata a capo della Global Children's Foundation ed è stata presidente del World ...