Tên gọi của nước Áo trong tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Trung. Tên tiếng Anh của Áo là Austria. Bằng tiếng Trung, Austria phiên âm thành "Ào dì lì" (theo pinyin), chữ Hán viết là "奧地利" (Áo Địa Lợi). Tên gọi "Áo" trong tiếng Việt là gọi tắt của "Áo Địa Lợi".[19] Tên tiếng Đức của Áo là Österreich, có nghĩa là "Đông Quốc" (Öster - East - "Đông", reich - Realm - "Quốc").[cần dẫn nguồn]
Tên tiếng Anh của nước Áo (Austria) dễ gây nhầm lẫn với quốc hiệu của nước Úc (Australia). Do vậy ở Áo có một câu khá phổ biến mà người dân hay nói với du khách là "No kangaroos in Austria" (Không có chuột túi ở Áo).[cần dẫn nguồn]
Vùng đất Trung Âu ngày nay là Áo được định cư vào thời tiền La Mã bởi nhiều bộ lạc người Celt. Vương quốc Noricum của người Celt sau đó đã bị Đế chế La Mã tuyên bố chủ quyền và lập thành một tỉnh. Petronell-Carnuntum ngày nay ở miền đông Áo là một doanh trại quan trọng đã biến thành phố thủ phủ ở nơi được biết là tỉnh Thượng Pannonia. Carnuntum là nhà của 50.000 người trong gần 400 năm.[20]
Ghi chép đầu tiên về tên Áo là từ năm 996, khi đó, nó được viết là Ostarrîchi, đề cập đến lãnh thổ của Babenberg.[22] Năm 1156, Privilegium Minus nâng Áo lên vị thế một lãnh địa của công tước. Vào năm 1192, người Babenberg cũng đã giành được lãnh địa xứ Styria. Với cái chết của Frederick II vào năm 1246, dòng dõi Babenberg đã bị dập tắt.[23]
Kết quả là, Ottokar II của Bohemia đã nắm quyền kiểm soát hiệu quả các lãnh địa công tước của Áo như Styria và Carinthia.[23] Triều đại của ông đã chấm dứt sau thất bại tại Dürnkrut dưới tay của Rudolph I của Đức vào năm 1278.[24] Sau đó, cho đến Thế chiến thứ nhất, lịch sử của Áo phần lớn là lịch sử của triều đại cầm quyền, nhà Habsburgs.
Vào Thế kỷ 14 và Thế kỷ 15, nhà Habsburg bắt đầu thu thập các tỉnh trong vùng lân cận của lãnh địa công tước Áo. Năm 1438, Công tước Albert V của Áo được chọn làm người kế vị cha vợ của mình, Hoàng đế Sigismund. Mặc dù bản thân Albert chỉ trị vì trong một năm nhưng từ đó, mọi hoàng đế của Đế chế La Mã thần thánh đều là người nhà Habsburg (chỉ có một ngoại lệ).
Năm 1526, sau trận Mohács, Bohemia và một phần của Hungary không bị Ottoman chiếm đóng đã nằm dưới sự cai trị của Áo.[27]Sự bành trướng của Ottoman vào Hungary đã dẫn đến xung đột thường xuyên giữa hai đế chế, đặc biệt rõ ràng trong Chiến tranh dài từ 1593 đến 1606. Người Thổ Nhĩ Kỳ đã xâm nhập vào Styria gần 20 lần,[28] trong đó một số người được trích dẫn là "đốt, cướp và lấy hàng ngàn nô lệ ".[29] Vào cuối tháng 9 năm 1529, Suleiman the Magnificent đã phát động Cuộc vây hãm Viên lần thứ nhất, kết thúc không thành công, theo các nhà sử học Ottoman, với những trận tuyết rơi của một mùa đông đầu năm.
Hoàng đế Charles VI đã từ bỏ nhiều lợi ích mà đế chế đã đạt được trong những năm trước, phần lớn là do sự e ngại của ông trước sự tuyệt tôn sắp xảy ra của Nhà Habsburg. Charles sẵn sàng đưa ra những lợi thế cụ thể trong lãnh thổ và quyền hạn để đổi lấy sự công nhận Sắc lệnh thực dụng để đưa con gái Maria Theresa trở thành người thừa kế. Với sự trỗi dậy của nước Phổ, thuyết nhị nguyên Áo Phổ bắt đầu ở Đức. Áo đã tham gia cùng với Phổ và Nga trong phân chia Ba Lan lần đầu tiên và thứ ba (vào năm 1772 và 1795).
Áo sau đó đã tham gia vào một cuộc chiến tranh với nước Pháp cách mạng, lúc đầu rất không thành công với những thất bại liên tiếp dưới tay Napoleon, dẫn đến sự kết thúc của Đế quốc La Mã Thần thánh cũ vào năm 1806. Hai năm trước,[31]Đế quốc Áo được thành lập. Từ năm 1792 đến năm 1801, người Áo đã phải chịu 754.700 thương vong.[32] Năm 1814, Áo là một phần của lực lượng Đồng minh đã xâm chiếm Pháp và chấm dứt Chiến tranh Napoléon.
Đế quốc Áo nổi lên từ Đại hội Viên năm 1815 với tư cách là một trong bốn cường quốc thống trị lục địa và là một cường quốc được công nhận. Cùng năm đó, Liên bang Đức (Deutscher Bund) được thành lập dưới sự lãnh đạo của Áo. Do các cuộc xung đột xã hội, chính trị và quốc gia chưa được giải quyết, các vùng đất của Đức đã bị rung chuyển bởi các cuộc cách mạng năm 1848 nhằm tạo ra một nước Đức thống nhất.[33]
Các khả năng khác nhau khác nhau đối với một nước Đức thống nhất là: một nước Đại Đức hoặc Đại Áo hoặc chỉ là Liên bang Đức mà không có Áo. Vì Áo không sẵn sàng từ bỏ các lãnh thổ nói tiếng Đức của mình để trở thành Đế chế Đức năm 1848, vương miện của đế chế mới được thành lập đã được trao cho Quốc vương Phổ Friedrich Wilhelm IV. Năm 1864, Áo và Phổ đã cùng nhau chiến đấu chống lại Đan Mạch và bảo vệ sự độc lập khỏi Đan Mạch của các lãnh thổ công tước Schleswig và Holstein. Tuy nhiên, vì hai nước không thể đồng thuận về cách quản lý hai lãnh thổ công tước trên, dẫn tới Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866. Bị đánh bại bởi Phổ trong Trận Königgrätz,[33] Áo phải rời khỏi Liên minh Đức và không còn tham gia vào chính trị Đức.[34][35]
Thỏa hiệp Áo-Hung năm 1867, Ausgleich, đã tạo nên một nền quân chủ song đôi Áo–Hung giữa Đế quốc Áo và Vương quốc Hungary, dưới thời Franz Joseph I.[36] Sự cai trị của Áo-Hung của đế chế đa sắc tộc này bao gồm nhiều nhóm sắc tộc Slavơ khác nhau như người Croatia, người Séc, người Ba Lan, người Rusyn, người Serb, người Slovak, người Slovene và người Ukraine cũng như các cộng đồng lớn người Ý và người Rumani.
Do đó, việc cầm quyền Áo-Hungary ngày càng trở nên khó khăn trong thời đại các phong trào dân tộc nổi lên, đòi hỏi sự phụ thuộc đáng kể vào một cảnh sát mật mở rộng. Tuy nhiên, chính phủ Áo đã cố gắng hết sức để chấp nhận một số khía cạnh: ví dụ như Reichsgesetzblatt, xuất bản luật và pháp lệnh của Cisleithania được ban hành bằng tám ngôn ngữ; và tất cả các nhóm quốc gia được hưởng các trường học bằng ngôn ngữ của họ và sử dụng tiếng mẹ đẻ của họ tại các cơ quan nhà nước.
Nhiều người Áo thuộc tất cả các nhóm xã hội khác nhau như Georg Ritter von Schönerer đã thúc đẩy Chủ nghĩa dân tộc Đức mạnh mẽ với hy vọng củng cố một bản sắc dân tộc Đức và sáp nhập Áo vào Đức.[37] Một số người Áo như Karl Lueger cũng sử dụng Chủ nghĩa dân tộc Đức như một hình thức của chủ nghĩa dân túy để tiếp tục các mục tiêu chính trị của riêng họ. Mặc dù các chính sách của Bismarck đã loại trừ Áo và người Áo nói tiếng Đức khỏi Đức, nhưng nhiều người Áo theo Chủ nghĩa dân tộc Đức đã thần tượng ông ta và mặc những bông hoa ngô màu xanh, được biết đến là loài hoa yêu thích của Hoàng đế Đức Wilhelm I trong đôi giày của họ, cùng với màu nước hoa, màu đỏ và màu vàng), mặc dù cả hai đều bị cấm tạm thời tại các trường học ở Áo, như một cách thể hiện sự bất mãn đối với đế chế đa sắc tộc.[38]
Việc Áo bị loại khỏi Đức khiến nhiều người Áo gặp vấn đề với bản sắc dân tộc và khiến Nhà lãnh đạo Dân chủ Xã hội Otto Bauer tuyên bố rằng đó là "cuộc xung đột giữa tính cách Áo và Đức của chúng ta."[39] Đế quốc Áo-Hung gây căng thẳng sắc tộc giữa Người Áo Đức và các nhóm dân tộc khác. Nhiều người Áo, đặc biệt là những người liên quan đến các phong trào dân tộc Đức, mong muốn củng cố một bản sắc dân tộc Đức và hy vọng rằng đế chế sẽ sụp đổ, cho phép sáp nhập Áo với Đức.[40]
Rất nhiều người theo chủ nghĩa dân tộc Đức của Áo đã nhiệt tình chống lại sắc lệnh ngôn ngữ của Bộ trưởng Kasimir Bá tước Baden năm 1897, khiến các ngôn ngữ đồng chính thức của Đức và Séc ở Bohemia và yêu cầu các quan chức chính phủ mới phải thông thạo cả hai ngôn ngữ. Điều này có nghĩa trong thực tế rằng công vụ dân sự hầu như chỉ thuê người Séc, bởi vì hầu hết những người Séc thuộc tầng lớp trung lưu nói tiếng Đức nhưng không có nhiều người Đức nói được tiếng Séc. Sự ủng hộ của các chính trị gia và giáo sĩ Công giáo theo thuyết giáo hoàng nắm quyền tuyệt đối cho cải cách này đã kích hoạt sự phát động của phong trào "Xa rời Rome" (tiếng Đức: Los-von-Rom), được khởi xướng bởi những người ủng hộ Schönerer và kêu gọi các Kitô hữu "người Đức" rời khỏi Giáo hội Công giáo La Mã.[41]
Vào ngày 21 tháng 10 năm 1918, các thành viên Đức được bầu của Reichsrat (quốc hội của Áo) đã họp tại Viên với tư cách là Quốc hội lâm thời của nhà nước Áo Đức (Provisorische Nationalversammlung für Deutschösterreich). Vào ngày 30 tháng 10, hội nghị thành lập Cộng hòa Áo Đức bằng cách bổ nhiệm một chính phủ, được gọi là Staatsrat. Chính phủ mới này đã được Hoàng đế mời tham gia quyết định đình chiến theo kế hoạch với Ý nhưng đã không thực hiện.
Điều này để lại trách nhiệm kết thúc của cuộc chiến, vào ngày 3 tháng 11 năm 1918, chỉ dành cho hoàng đế và chính phủ của ông. Vào ngày 11 tháng 11, hoàng đế được cố vấn bởi các bộ trưởng của chính phủ cũ và mới, tuyên bố ông sẽ không tham gia vào công việc của nhà nước nữa; vào ngày 12 tháng 11, Áo Đức, theo luật, tuyên bố mình là một nước cộng hòa dân chủ và là một phần của nước cộng hòa mới của Đức. Hiến pháp, đổi tên Staatsrat thành Bundesregierung (chính phủ liên bang) và Nationalversammlung thành Nationalrat (hội đồng quốc gia) được thông qua vào ngày 10 tháng 11 năm 1920.
Hiệp ước Saint-Germain năm 1919 (Hiệp ước Trianon với Hungary năm 1920) đã xác nhận và củng cố trật tự mới ở Trung Âu, đến một mức độ lớn đã được thiết lập vào tháng 11 năm 1918, tạo ra các quốc gia mới và thay đổi các quốc gia khác. Các bộ phận nói tiếng Đức của Áo từng là một phần của Áo-Hung đã bị giảm xuống thành một quốc gia hỗn loạn có tên Cộng hòa Áo Đức (tiếng Đức: Republik Deutschösterreich).[45][46] Mong muốn về Anschluss (sáp nhập Áo vào Đức) là một ý kiến phổ biến được chia sẻ bởi tất cả các nhóm xã hội ở cả Áo và Đức.[47] Vào ngày 12 tháng 11, Áo Đức được tuyên bố là một nước cộng hòa với Karl Renner thuộc đảng Dân chủ Xã hội làm thủ tướng lâm thời. Cùng ngày, một hiến pháp tạm thời đã soạn thảo tuyên bố rằng "Áo Đức là một nước cộng hòa dân chủ" (Điều 1) và "Áo Đức là một phần không thể thiếu của đế chế Đức" (Điều 2).[48] Hiệp ước Saint Germain và Hiệp ước Versailles cấm liên minh giữa Áo và Đức.[49][50] Các hiệp ước cũng buộc Áo Đức phải đổi tên thành "Cộng hòa Áo", từ đó dẫn đến Đệ nhất Cộng hòa Áo.[51][52]
Hơn 3 triệu người Áo nói tiếng Đức đã sống bên ngoài Cộng hòa Áo mới với tư cách là thiểu số ở các quốc gia mới được thành lập hoặc mở rộng của Tiệp Khắc, Nam Tư, Hungary và Ý.[53] Chúng bao gồm các tỉnh Nam Tyrol (đã trở thành một phần của Ý) và Bohemia thuộc Đức (Tiệp Khắc). Tình trạng của Bohemia thuộc Đức (Sudetenland) sau đó đã đóng một vai trò trong việc châm ngòi cho Thế chiến thứ hai.[54]
Tình trạng của Nam Tyrol là một vấn đề còn sót lại giữa Áo và Ý cho đến khi nó được chính thức giải quyết vào những năm 1980 với một mức độ tự trị tuyệt vời được chính phủ quốc gia Ý trao cho nó. Giữa năm 1918 và 1919, Áo được gọi là Nhà nước Áo Đức (Staat Deutschösterreich). Các cường quốc Entente không chỉ cấm Áo Đức hợp nhất với Đức, mà họ còn từ chối tên Áo Đức trong hiệp ước hòa bình được ký kết; do đó, nó đã đổi thành Cộng hòa Áo vào cuối năm 1919.[54]
Biên giới giữa Áo và Vương quốc của người Serb, Croat và người Slovene (sau đó là Nam Tư) đã được định cư với Carinthian Plebiscite vào tháng 10 năm 1920 và phân bổ phần lớn lãnh thổ của Vương quốc Carinthia thuộc Áo-Hung cũ của Áo cho Áo. Điều này đặt biên giới trên dãy núi Karawanken, với nhiều người Slovene còn lại ở Áo.
Sau chiến tranh, lạm phát bắt đầu phá giá đồng Krone là tiền tệ của Áo. Vào mùa thu năm 1922, Áo được cấp một khoản vay quốc tế được giám sát bởi Hội Quốc Liên.[55] Mục đích của khoản vay là ngăn chặn phá sản, ổn định tiền tệ và cải thiện tình trạng kinh tế chung của Áo. Khoản vay này có nghĩa là Áo đã chuyển từ một quốc gia độc lập sang nằm dưới kiểm soát của Hội Quốc Liên. Năm 1925, đồng Schilling ra đời và thay thế đồng Krone với tỷ lệ 10.000: 1. Sau đó, nó được đặt biệt danh là "đô la Alps" do tính ổn định của nó. Từ năm 1925 đến 1929, nền kinh tế đã đạt mức cao ngắn trước khi gần như sụp đổ sau ngày thứ Ba đen tối.
Đệ Nhất Cộng hòa Áo tồn tại đến năm 1933 khi Thủ tướng Engelbert Dollfuss sử dụng cái mà ông gọi là "Quốc hội tự đóng cửa", đã thiết lập một chế độ chuyên quyền có xu hướng theo chủ nghĩa phát xít Ý.[56][57] Hai đảng lớn tại thời điểm này, Đảng Dân chủ Xã hội và Đảng Bảo thủ đều có quân đội bán quân sự;[58]Schutzbund của Đảng Dân chủ Xã hội hiện đã bị tuyên bố là bất hợp pháp, nhưng vẫn hoạt động[58] khi cuộc nội chiến nổ ra.[56][57][59]
Vào tháng 2 năm 1934, một số thành viên của Schutzbund đã bị xử tử. [61] Đảng Dân chủ Xã hội bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và nhiều thành viên của nó đã bị cầm tù hoặc di cư. [60] Vào ngày 1 tháng 5 năm 1934, những người Phát xít Áo đã áp đặt một hiến pháp mới ("Maiverfassung") nhằm củng cố quyền lực của Dollfuss nhưng vào ngày 25 tháng 7, ông ta đã bị ám sát trong một nỗ lực đảo chính của Đức Quốc xã. [62] [63]
Người kế vị của ông Kurt Schuschnigg thừa nhận Áo là một "quốc gia Đức" và người Áo là "người Đức tốt hơn" nhưng mong muốn Áo vẫn độc lập.[60] Ông tuyên bố trưng cầu dân ý vào ngày 9 tháng 3 năm 1938, được tổ chức vào ngày 13 tháng 3, liên quan đến sự độc lập của Áo khỏi Đức. Vào ngày 12 tháng 3 năm 1938, Đức quốc xã Áo tiếp quản chính phủ, trong khi quân đội Đức chiếm đóng đất nước, điều này ngăn cản cuộc trưng cầu dân ý của Schuschnigg.[61] Vào ngày 13 tháng 3 năm 1938, Anschluss của Áo được tuyên bố chính thức. Hai ngày sau, Hitler vốn sinh ra ở Áo tuyên bố cái mà ông ta gọi là "thống nhất" đất nước quê hương của mình với "phần còn lại của Đế chế Đức" ở quảng trường Heldenplatz, Viên. Ông tổ chức một cuộc trưng cầu ý dân xác nhận liên minh với Đức vào tháng 4 năm 1938.
Cuộc bầu cử quốc hội được tổ chức tại Đức (bao gồm cả Áo bị sáp nhập gần đây) vào ngày 10 tháng 4 năm 1938. Đó là cuộc bầu cử cuối cùng của Reichstag trong thời kỳ phát xít, và có hình thức trưng cầu dân ý một vấn đề về việc cử tri có chấp thuận một danh sách Reichstag 813 thành viên của đảng Quốc xã cũng như sự sáp nhập gần đây của Áo (Anschluss). Người Do Thái và Gypsy không được phép bỏ phiếu.[62] Tỷ lệ cử tri trong cuộc bầu cử chính thức là 99,5%, với 98,9% phiếu bầu "có". Ở Áo, quê hương của Adolf Hitler, 99,71% tổng số cử tri là 4.484.475 đã chính thức đi bỏ phiếu với tỷ lệ ủng hộ là 99,73%.[63] Mặc dù hầu hết người Áo thích Anschluss nhưng ở một số vùng của Áo, binh lính Đức không phải lúc nào cũng được chào đón bằng hoa và niềm vui, đặc biệt là ở Viên, nơi có Do Thái đông nhất của Áo.[64] Tuy nhiên, mặc dù tuyên truyền và thao túng và gian lận bao quanh kết quả thùng phiếu, vẫn có sự hỗ trợ thực sự lớn để Hitler hoàn thành Anschluss[65] vì nhiều người Đức từ cả Áo và Đức đã thấy sự thống nhất tất cả người Đức hợp nhất thành một nhà nước lẽ ra đã phải được thực hiện từ trước.[66]
Vào ngày 12 tháng 3 năm 1938, Áo bị sáp nhập vào Đế chế thứ ba và không còn là một quốc gia độc lập. Việc Aryan hóa sự giàu có của người Áo Do Thái bắt đầu ngay lập tức vào giữa tháng 3 với giai đoạn được gọi là "hoang dã" (tức là ngoài vòng pháp luật), nhưng đã sớm được cấu trúc hợp pháp và quan liêu để tước đoạt bất kỳ tài sản nào của người Do Thái. Đức quốc xã đã đổi tên Áo vào năm 1938 thành "Ostmark"[61] cho đến năm 1942, khi nó được đổi tên một lần nữa và được gọi là "Alpine và Danubian Gaue" (Alpen-und Donau-Reichsgaue).[67][68]
Mặc dù người Áo chỉ chiếm 8% dân số của Đế chế thứ ba,[69] một số người Đức quốc xã nổi bật nhất là người Áo bản địa như Adolf Hitler, Ernst Kaltenbrunner, Arthur Seyss-Inquart, Franz Stangl và Odilo Globocnik,k]],[70] cũng như hơn 13% SS và 40% nhân viên tại các trại hủy diệt của Đức quốc xã.[69] Viên sụp đổ vào ngày 13 tháng 4 năm 1945 trong cuộc tấn công Viên của Liên Xô, ngay trước khi sự sụp đổ hoàn toàn của Đệ tam Quốc xã. Các cường quốc Đồng minh xâm lược, đặc biệt là người Mỹ, đã lên kế hoạch cho "Chiến dịch pháo đài núi cao" được cho là của một quốc gia, phần lớn đã diễn ra trên đất Áo ở vùng núi thuộc dãy núi Alps phía đông. Tuy nhiên, nó không bao giờ thành hiện thực vì sự sụp đổ nhanh chóng của Đệ tam Đế chế.
Karl Renner và Adolf Schärf (Đảng Xã hội Áo [Dân chủ Xã hội và Xã hội Cách mạng]), Leopold Kunschak (Đảng Nhân dân Áo [Đảng Nhân dân Xã hội Kitô giáo cũ)), và Johann Koplenig (Đảng Cộng sản Áo) tuyên bố ly khai khỏi Đế chế thứ ba bởi Tuyên ngôn Độc lập ngày 27 tháng 4 năm 1945 và thành lập một chính phủ lâm thời ở Viên dưới thời Thủ tướng Renner cùng ngày với sự chấp thuận của Hồng quân chiến thắng và được Joseph Stalin hậu thuẫn.[71] (Ngày này được đặt tên chính thức là ngày sinh nhật của nước Đệ nhị Cộng hòa.) Vào cuối tháng 4, hầu hết miền tây và miền nam Áo vẫn nằm dưới sự cai trị của Đức Quốc xã. Vào ngày 1 tháng 5 năm 1945, hiến pháp liên bang năm 1929 đã bị nhà độc tài Dollfuss chấm dứt vào ngày 1 tháng 5 năm 1934 lại được tuyên bố hợp lệ.
Tổng số tử vong quân sự từ 1939 đến 1945 ước tính là 260.000.[72] Nạn nhân Holocaust Do Thái tổng cộng 65.000.[73] Khoảng 140.000 người Áo Do Thái đã rời khỏi đất nước vào năm 1938. Hàng ngàn người Áo đã tham gia vào các tội ác nghiêm trọng của Đức Quốc xã (hàng trăm ngàn người chết trong trại tập trung Mauthausen-Gusen), một sự thật được Thủ tướng Franz Vranitzky công nhận chính thức vào năm 1992.
Thời đại đương đại
Giống như Đức, Áo được chia thành các khu vực của Mỹ, Anh, Pháp và Liên Xô và được quản lý bởi Ủy ban Đồng minh của Áo.[74] Theo dự báo trong Tuyên bố Moscow năm 1943, một sự khác biệt tinh tế đã được nhìn thấy trong cách đối xử của Áo bởi quân Đồng minh.[71] Chính phủ Áo bao gồm các đảng Dân chủ Xã hội, Bảo thủ và Cộng sản (cho đến năm 1947), và cư trú tại Viên, được bao quanh bởi khu vực Liên Xô, đã được các Đồng minh phương Tây công nhận vào tháng 10 năm 1945 sau khi một số nghi ngờ rằng Renner có thể là con rối của Stalin. Do đó, việc thành lập một chính phủ Tây Áo riêng biệt và phân chia đất nước đã tránh được. Áo nói chung được đối xử như thực thể ban đầu bị Đức xâm chiếm và giải phóng bởi quân Đồng minh.[75]
Vào ngày 15 tháng 5 năm 1955, sau các cuộc đàm phán kéo dài trong nhiều năm và chịu ảnh hưởng của Chiến tranh Lạnh, Áo đã giành lại độc lập hoàn toàn bằng cách ký kết Hiệp ước Nhà nước Áo với Bốn cường quốc chiếm đóng. Vào ngày 26 tháng 10 năm 1955, sau khi tất cả quân đội chiếm đóng đã rời đi, Áo tuyên bố "tính trung lập vĩnh viễn" của mình bằng một đạo luật của quốc hội.[76] Ngày này là ngày Quốc khánh của Áo.[77]
Hệ thống chính trị của nền Đệ nhị Cộng hòa dựa trên hiến pháp năm 1920 và 1929, được giới thiệu lại vào năm 1945. Hệ thống này được đặc trưng bởi Proporz, có nghĩa là hầu hết các chức vụ có tầm quan trọng chính trị được chia đều giữa các thành viên của Đảng Dân chủ Xã hội Áo (SPÖ) và Đảng Nhân dân Áo (VP).[78] "Các văn phòng" của các nhóm lợi ích với tư cách thành viên bắt buộc (ví dụ: đối với công nhân, doanh nhân, nông dân) đã tăng lên tầm quan trọng đáng kể và thường được tư vấn trong quy trình lập pháp. Vì vậy hầu như không có luật nào được thông qua mà không phản ánh sự đồng thuận rộng rãi.[79]
Kể từ năm 1945, việc điều hành thông qua một chính phủ độc đảng đã xảy ra hai lần: 1966-1970 (ÖVP) và 1970-1983 (SPÖ). Trong tất cả các thời kỳ lập pháp khác, một liên minh lớn của SPÖ và ÖVP hoặc một "liên minh nhỏ" (một trong hai và một đảng nhỏ hơn) đã cai trị đất nước.
Kurt Waldheim, một sĩ quan Wehrmacht trong Thế chiến thứ hai bị cáo buộc tội ác chiến tranh, được bầu làm Tổng thống Áo từ năm 1986 đến năm 1992.[80]
Sau một cuộc trưng cầu dân ý năm 1994, khi đó sự đồng ý đạt được phần lớn hai phần ba, quốc gia này đã trở thành thành viên của Liên minh châu Âu vào ngày 1 tháng 1 năm 1995.[81]
Các đảng lớn SPÖ và ÖVP có ý kiến trái ngược về tình trạng không liên kết quân sự của Áo: Trong khi SPÖ công khai ủng hộ vai trò trung lập, ÖVP lập luận về việc tích hợp mạnh mẽ hơn vào chính sách an ninh của EU; ngay cả một thành viên NATO trong tương lai cũng không bị loại trừ bởi một số chính trị gia ÖVP (ví dụ: Tiến sĩ Werner Fasslabend (VP) năm 1997). Trên thực tế, Áo đang tham gia Chính sách đối ngoại và an ninh chung của EU, tham gia vào các nhiệm vụ gìn giữ hòa bình và tạo dựng hòa bình, và đã trở thành thành viên của "Đối tác vì hòa bình" của NATO; hiến pháp đã được sửa đổi cho phù hợp. Kể từ khi Liechtenstein gia nhập Khu vực Schengen vào năm 2011, không một quốc gia láng giềng nào của Áo thực hiện kiểm soát biên giới đối với nó nữa.
Cộng hòa Áo, theo Hiến pháp liên bang năm 1920, tiếp tục có hiệu lực từ sau 1945[82], là một nước Cộng hòa liên bang dân chủ nghị viện bao gồm 9 tiểu bang. Nguyên thủ quốc gia là Tổng thống liên bang được bầu trực tiếp từ công dân 6 năm một lần. Người lãnh đạo chính phủ là Thủ tướng liên bang trên thực tế được tổng thống bổ nhiệm theo tỷ lệ đa số trong Hội đồng quốc gia (Nationalrat). Chính phủ có thể bị mãn nhiệm thông qua biểu quyết bất tín nhiệm của Hội đồng quốc gia. Bầu cử cho Tổng thống Liên bang và Quốc hội đã từng bắt buộc ở Áo, nhưng điều này đã bị bãi bỏ từ năm 1982 đến năm 2004[83].
Nghị viện của Áo bao gồm hai viện. Thành phần của Hội đồng quốc gia với 183 thành viên được quyết định bởi các cuộc bầu cử tự do 4 năm một lần, được bầu với nhiệm kỳ năm năm của đại diện tỷ lệ[84]. Mức cản 4% được đưa ra nhằm ngăn cản một phân tán quá lớn của các đảng trong Hội đồng quốc gia. Hội đồng liên bang (Bundesrat) được cử ra từ các Hội đồng tiểu bang (Landtag). Hội đồng quốc gia là viện chiếm ưu thế trong lập pháp ở Áo. Hội đồng liên bang trong đa số các trường hợp chỉ có quyền phủ quyết có tính cách trì hoãn, có thể bị mất hiệu lực bởi Nghị định kiên quyết (Beharrungsbeschluss) của Hội đồng quốc gia.
Từ khi Cộng hòa Áo được thành lập, nền chính trị ở Áo chịu ảnh hưởng của 2 đảng lớn là Đảng Nhân dân Áo (Österreichische Volkspartei – ÖVP) có đường hướng Thiên chúa giáo bảo thủ (trước Chiến tranh thế giới thứ hai có tên là Đảng Thiên chúa giáo-Xã hội) và Đảng Xã hội Dân chủ Áo (Sozialdemokratische Partei Österreichs – SPÖ) có tên trước đây là Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa Áo - Sozialistische Arbeiterpartei Österreichs[85]. Cả hai đảng đã có từ thời quân chủ và được tái thành lập sau khi thủ đôViên được giải phóng vào thời gian cuối của Chiến tranh thế giới thứ hai trong tháng 4 năm 1945. Trong hai giai đoạn 1945 – 1966 và 1986 – 1999 hai đảng này cùng cầm quyền ở Áo trong "liên minh lớn" mặc dù có thế giới quan trái ngược nhau.
Xu hướng chính trị thứ ba, nhỏ hơn rất nhiều, thuộc đường hướng quốc gia dân tộc Đức, tập trung trong thời đệ Nhất cộng hòa trong Đảng Nhân dân Đại Đức (Großdeutsche Volkspartei), trong đệ Nhị cộng hòa là Liên minh Độc lập và sau đấy là trong Đảng Tự do Áo (Freiheitliche Partei Österreichs – FPÖ).
Đảng Cộng sản Áo cũng đã có vai trò chính trị trong những năn đầu của đệ Nhị cộng hòa, thế nhưng từ thập niên 1960 vì là đảng nhỏ nhất nên đã không còn có tầm quan trọng trên bình diện liên bang nữa. Tuy vậy Đảng Cộng sản Áo vẫn còn có số phiếu đáng kể trong nhiều cuộc bầu cử địa phương, ví dụ như tại thành phố Graz.
Trong thập niên 1980 hệ thống đảng phái chính trị cứng nhắc này bắt đầu tan vỡ. Một mặt là do sự xuất hiện của Đảng Xanh (Áo) trên chính trường ở phía cánh tả và mặt khác là do Đảng Tự do Áo chuyển sang đường hướng dân túy khuynh hữu (right populism). Tách ra từ đảng này là Diễn đàn Tự do (Liberales Forum), lại biến mất trên trường chính trị ngay sau đó. Liên minh Tương lai Áo (Bündnis Zukunft Österreich – BZÖ) thành lập trong năm 2005 đánh dấu sự chia rẽ lần thứ hai của Đảng Tự do Áo.
Sau cuộc bầu cử tổng thống được tổ chức vào tháng 10 năm 2006, Đảng Dân chủ Xã hội (SPÖ) nổi lên là đảng mạnh nhất, và Đảng Nhân dân Áo (ÖVP) đứng thứ hai, mất khoảng 8% số phiếu bầu trước đó. Luật pháp nghiêm cấm bất kỳ một trong hai đảng chính hình thành liên minh với các đảng nhỏ hơn. Vào tháng 1 năm 2007, Đảng Nhân dân và Đảng Dân chủ Xã hội đã thành lập một liên minh lớn với nhà dân chủ xã hội Alfred Gusenbauer làm Thủ tướng. Liên minh này đã tan rã vào tháng 5 năm 2008.
Cuộc bầu cử vào tháng 9 năm 2008 tiếp tục làm suy yếu cả hai đảng chính (SPÖ và ÖVP) nhưng cùng nhau họ vẫn nắm giữ 70% phiếu bầu, với Đảng Dân chủ Xã hội nắm giữ hơi nhiều hơn đảng kia. Họ lại thành lập một liên minh với nhau và Werner Faymann của Đảng Dân chủ Xã hội nắm giữ chức vị Thủ tướng.
Trong cuộc bầu cử lập pháp năm 2013, Đảng Dân chủ Xã hội đã nhận được 27% số phiếu và 52 ghế trong Quốc hội; Đảng Nhân dân xếp thứ hai với 24% phiếu bầu và 47 ghế, do đó 2 đảng này cùng nhau chiếm giữ đa số ghế trong Quốc hội. Đảng Tự do đã nhận được 40 ghế và 21% số phiếu bầu, trong khi Đảng Xanh nhận được 12% phiếu bầu và 24 ghế.
Sau khi Liên minh lớn tan rã vào mùa xuân năm 2017, một cuộc bầu cử nhanh chóng được tổ chức vào tháng 10 cùng năm. Đảng Nhân dân Áo (ÖVP) với lãnh đạo trẻ mới là Sebastian Kurz đã nổi lên như là đảng lớn nhất trong Quốc hội, giành 31,5% phiếu bầu và 62 trên tổng số 183 ghế. Đảng Dân chủ Xã hội (SP Dem) đứng thứ hai với 52 ghế và 26,9% phiếu bầu, tiếp sau đó là Đảng Tự do Áo (FPÖ), với 51 ghế và 26% phiếu bầu. ÖVP đã quyết định thành lập một liên minh mới với FPÖ, và Sebastian Kurz đã tuyên thệ nhậm chức thủ tướng vào ngày 18 tháng 12 năm 2017.
Hệ thống pháp luật
Cơ sở của luật dân sự Áo là Bộ luật dân sự Áo (Allgemeines bürgerliches Gesetzbuch – AGB) từ 1 tháng 6 năm 1811, được tu chính sâu rộng trong giao đoạn 1914 – 1916 dưới ảnh hưởng của phong trào "Trường phái lịch sử Đức" (German Historical School of Law). Mãi đến năm 1970 mới có nhiều sửa đổi lớn tiếp theo, đặc biệt là trong luật gia đình. Nhiều phần lớn của luật dân sự được quy định ngoài Bộ luật dân sự, trong đó là nhiều luật đặc biệt được ban hành sau khi Áo "kết nối" với nước Đức Quốc xã năm 1938 và vẫn còn có hiệu lực sau năm 1945 với các phiên bản đã được tu chính tẩy trừ quốc xã, ví dụ như luật hôn nhân, bộ luật thương mại và luật cổ phiếu.
Luật hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự hiện đại từ ngày 23 tháng 1 năm 1974. Ngoài các hình phạt bộ luật còn quy định những biện pháp phòng chống (đưa những phạm nhân có tiềm năng tái phạm, cần phải cai trị hay không bình thường về tâm thần vào trong các trại tương ứng), cả hai chỉ được tuyên xử khi phạm tội từ thời gian có quy định trong luật (nguyên tắc không hồi tố). Án tử hình đã bị hủy bỏ.
Luật về vốn tư bản, doanh nghiệp và kinh tế chịu ảnh hưởng của việc tiếp nhận các luật lệ của Liên minh châu Âu năm 1995 và của các chỉ thị (luật lệ khung), quy định (các luật có thể được áp dụng trực tiếp) của Liên minh châu Âu dưới sự cộng tác của Áo từ khi gia nhập và cũng như là các phán quyết của Tòa án châu Âu. Trong trường hợp hoài nghi thì luật của cộng đồng được ưu tiên.
Tòa án dân sự và hình sự bao gồm tòa án tỉnh (Bezirksgericht), tòa án tiểu bang (Landesgericht), tòa án liên bang (Oberlandesgericht) và tòa án tối cao là cấp phán xử cao nhất.
Việc bảo vệ đất nước bằng quân sự dựa trên nghĩa vụ quân sự phổ thông cho tất cả các công dân nam trong độ tuổi từ 17 đến 50. Phụ nữ có thể tình nguyện gia nhập quân đội. Trong năm 2012, chi tiêu quốc phòng của Áo tương ứng với khoảng 0,8% GDP, thuộc vào trong số những ngân sách thấp nhất trên thế giới. Quân đội hiện có khoảng 26.000 binh sĩ[86], trong đó có khoảng 12.000 người tham dự. Là người đứng đầu nhà nước, Tổng thống Áo được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh của Bundesheer (Lực lượng vũ trang Áo). Bộ trưởng Quốc phòng chỉ huy lực lượng vũ trang Áo.
Nhân lực của lực lượng vũ trang Áo (tiếng Đức: Bundesheer) chủ yếu dựa vào nghĩa vụ quân sự. Nam giơi đủ 18 tuổi phải thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc trong vòng sáu tháng. Những người trong độ tuổi nghĩa vụ nhưng lại từ chối không tham gia quân đội vì lý do lương tâm có thể phục vụ trong các ngành dân sự (Zivildienst) để thay thế. Thời gian phục vụ là 12 tháng và từ ngày 1 tháng 1 năm 2006 là 9 tháng.
Kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, và quan trọng hơn là việc loại bỏ "Bức màn sắt" trước đây đã tách Áo khỏi các nước láng giềng Đông Âu (Hungary và Tiệp Khắc cũ), quân đội Áo đã hỗ trợ tối đa nguồn lực cho Bộ đội biên phòng Áo với nỗ lực ngăn chặn dòng người nhập cư bất hợp pháp từ 2 quốc gia láng giềng. Sự hỗ trợ này chấm dứt khi Hungary và Slovakia gia nhập Khu vực Schengen của EU trong năm 2008, qua đó Áo buộc phải bãi bỏ các biện pháp kiểm soát biên giới vì ÁO cũng là một thành viên của khu vực này. Một số chính khách đã kêu gọi tiếp tục thắt chặt sự kiểm soát đối với vùng biên giới, nhưng tính hợp pháp của nó đã gây nên rất nhiều tranh cãi. Theo hiến pháp Áo, lực lượng vũ trang chỉ có thể được triển khai trong một số trường hợp hạn chế, chủ yếu để bảo vệ đất nước và cứu trợ trong trường hợp khẩn cấp quốc gia, chẳng hạn như khi xảy ra thiên tai.
Chính sách tài chính
Ngân sách quốc gia 2005 dự tính chi 64,001 tỉ Euro và thu 58,866 tỉ Euro, tức bội chi 5,135 tỉ Euro hay 2,1% của GDP. Nhờ vào bội thu thuế ngoài dự đoán nên thiếu hụt được dự tính là chỉ vào khoảng 1,6 đến 1,7% tổng sản phẩm nội địa.
Nợ quốc gia năm 2005 đạt mức cao nhất từ trước đến nay với tổng cộng 154,86 tỉ Euro. Sau đấy, theo dự tính tổng số nợ sẽ giảm dần xuống còn 154,5 (2006) và 154,2 tỉ Euro (2007). Tỉ lệ nợ trong năm 2005 là 64,3% của GDP, đứng hàng thứ 18 trong Liên minh châu Âu. Vào thời điểm gia nhập Liên minh châu Âu, tỉ lệ nợ của nước Áo còn chiếm đến 69,2% của GDP. Nhờ vào tăng trưởng liên tục của GDP mà phần lớn là do xuất khẩu tăng nhanh sau khi gia nhập Liên minh châu Âu, đặc biệt là khi Liên minh châu Âu được mở rộng, nên tỉ lệ nợ đã giảm đi đôi chút ở những năm sau đó. Tuy vậy, đến năm 2017, tỉ lệ nợ đã đạt mức 81.7% GDP[87].
Nước Áo chỉ đạt tiêu chuẩn Masstricht (nợ nhiều nhất là 60% của GDP) lần cuối cùng vào năm 1992 – trước khi gia nhập Liên minh châu Âu năm 1995.
Với chính sách trung lập, từ giữa thế kỷ XX nước Áo tự xem nơi phân giới giữa 2 thế lực lớn đối diện của Tây Âu và Đông Âu. Vì thế chính sách ngoại giao thường bao hàm các biện pháp góp phần tăng cường sự ổn định trong khu vực và hợp tác tạo các quan hệ Đông-Tây mới. Từ khi khối Đông Âu tan rã, phương án này không còn hiệu lực nữa. Năm 1995 Áo trở thành thành viên của Liên minh châu Âu và vì thế trên thực tế không còn trung lập nữa mà chỉ không có liên minh về quân sự.
Viên, bên cạnh New York và Genève, là trụ sở thứ ba của văn phòng Liên Hợp Quốc, vì thế mà nguyên tố ngoại giao này có giá trị cao trong truyền thống. Trên 50.000 người Áo phục vụ dưới Cờ của Liên Hợp Quốc, là quân nhân, quan sát viên quân sự, cảnh sát dân sự và chuyên gia dân sự trên toàn thế giới. Ngoài các cơ quan của Liên Hợp Quốc, tai Viên còn có trụ sở của nhiều tổ chức quốc tế, trong đó có Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (từ 1957 tại Viên), Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu, Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ cũng như là nhiều tổ chức phi chính phủ khác.
Khoảng 60% nước Áo là đồi núi, gồm một phần của núi Alpen về phía đông. Ở Oberösterreich và Niederösterreich là vùng núi Böhmen chạy dài đến Cộng hoà Séc và Bayern (Đức), ở biên giới phía đông là núi Karpaten. Ngọn núi cao nhất ở Áo là Grossglockner (còn gọi là Großglockner, cao 3.797 m) ở Hohe Tauern. Các đồng bằng lớn nằm về phía đông dọc theo sông Danube, trước hết là vùng Aplenvorland và lưu vực Viên cũng như phía nam vùng Steiermark.
Khí hậu khô dần đi từ tây sang đông và trở thành khí hậu lục địa ở các vùng phía đông và đông nam nước Áo. Mùa đông với nhiều tuyết đã đem lại cho ngành du lịch thêm một mùa thứ hai. Thời gian có ánh nắng mặt trời lâu hơn ở miền bắc nước Đức từ 10 đến 20 phần trăm.
Núi cao nhất của Áo là Großglockner (3.798 m) trong vùng núi Hohe Tauern thuộc dãy núi Anpơ, tiếp theo sau đấy là Wildspitze với 3.774 m và Weißkugel (3.738 m). Địa thế núi non có tầm quan trọng lớn trong du lịch. Áo có rất nhiều vùng du lịch cho các môn thể thao mùa đông và trong mùa hè là cho các môn thể thao như leo núi.
Phần lớn nước Áo (80.566 km²) được thoát nước qua sông Donau vào Biển Đen, gần một phần ba ở đông nam qua sông Mur, Drau, và sau đó tiếp tục qua Donau vào Biển Đen, một số vùng nhỏ ở phía tây qua sông Rhein (2366 km²) vào Biển Đại Tây Dương và ở phía bắc qua sông Elbe (918 km²) vào Biển Bắc.
Những nhánh lớn của sông Donau là (từ tây sang đông):
Lech, Isar, và Inn. Những sông này đổ vào sông Donau ở Bayern, thoát nước cho vùng Tirol. Sông Salzach đổ vào sông Inn thoát nước cho vùng Salzburg (trừ vùng Lungau và một số khu vực vùng Pongau).
Traun, Enns, Ybbs, Erlauf, Pielach, Traisen, Wienfluss và Fischa thoát nước cho các vùng phía nam của sông Donau gồm vùng Thượng Áo, Steiermmark, Hạ Áo và Wien.
Mühl Lớn và Mühl Nhỏ, Rodl, Arst, Kamp, Göllersbach và Rußlau cũng như Thay ở biên giới phía bắc và Maren ở biên giới phía đông thoát nước cho các vùng phía bắc của sông Donau gồm Thượng Áo và Hạ Áo.
Sông Mur thoát nước cho vùng Lungau ở Salzburg và vùng Steiermark. Sông này đổ vào sông Drau ở Kroatien, tiếp tục thoát nước cho vùng Kärnten và đông Tirol. Ở Kroatien, sông Drau đổ vào sông Donau tại biên giới với Serbien. Sông Rhein thoát nước cho phần lớn vùng Vorarlberg, sông này chảy qua hồ Bodensee và sau đó đổ vào Biển Bắc. Sông Lainsitz là sông nhỏ không có ý nghĩa, nhưng lại là sông duy nhất của Áo thoát nước từ Hạ Áo qua Tschechien đổ vào sông Elbe.
Hệ động thực vật
Do có nhiều địa hình khác nhau nên hệ thực vật và động vật áo rất đa dạng. Trong những thập niên vừa qua 6 vườn quốc gia và nhiều công viên tự nhiên được thành lập để bảo vệ các chủng loại động thực vật.
Thực vật
Theo Sở bảo vệ môi trường liên bang, hệ thực vật có tổng cộng khoảng 2.950 loài, kể cả những loài đã tuyệt chủng và biến mất, trong đó có 1.187 loài (40,2 %) nằm trong sách đỏ.
Động vật
Nước Áo có khoảng 45.870 loài động vật, trong đó 98,6% là động vật không xương sống. Vì nhiều nguyên nhân khác nhau nên 10.882 loài đang bị đe dọa, trong đó 2.804 loài nằm trong sách đỏ.
Là một nước cộng hòa liên bang, Áo được chia thành chín tiểu bang (tiếng Đức: Bundesländer)[10]. Các tiểu bang này được chia thành các quận (Bezirke) và các thành phố theo luật định (Statutarstädte). Các huyện được chia thành các đô thị (Gemeinden). Thành phố theo luật định có năng lực được cấp cho cả quận và huyện. Các tiểu bang không chỉ là các đơn vị hành chính mà còn có một số cơ quan lập pháp khác với chính quyền liên bang, ví dụ như các vấn đề về văn hóa, chăm sóc xã hội, thanh thiếu niên, bảo vệ thiên nhiên, săn bắn, xây dựng và quy hoạch. Trong những năm gần đây, nó đã được thảo luận xem còn phù hợp với việc duy trì 10 nghị viện hay không.
Chín tiểu bang của Áo nhóm lại thành ba nhóm tiểu bang. Nhóm tiểu bang là vùng cấp một của Liên minh châu Âu. Đây không phải là một cấp hành chính. Việc phân nhóm chỉ nhằm mục đích thống kê.
Vùng dân cư lớn nhất Áo là vùng đô thị Viên với dân số vào khoảng 2,6 triệu người theo ước tính vào ngày 1 tháng 1 năm 2018). Như thế, 1/4 dân số của quốc gia tập trung trong vùng đô thị của thủ đô.
Các vùng đô thị lớn khác bao quanh các thủ phủ tiểu bang Graz (bang Steiermark), Linz (Oberösterreich), Salzburg (bang Salzburg) và Innsbruck (Tirol). Tổng cộng có tròn 200 đơn vị hành chánh lớn nhỏ khác nhau được quyền tự xưng là thành phố (Stadtrecht).
Kleinwalsertal là một trong các lãnh thổ bên ngoài của nước Áo. Tuy thuộc Áo (bang Vorarlberg) và về mặt địa lý giáp ranh với bang này nhưng chỉ có thể đến được Kleinwalsertal bằng đường bộ xuyên qua nước Đức. Một lãnh thổ bên ngoài khác là Jungholz trong vùng Tirol, tuy thuộc Áo nhưng cũng nằm trong nước Đức.
Nằm trong nước Áo là làng Samnaun của Thụy Sĩ, cả một thời gian dài chỉ có thể đến được bằng đường bộ xuyên qua nước Áo. Hiện nay tuy đã có đường bộ đến Samnaum chỉ nằm trên lãnh thổ của Thụy Sĩ nhưng làng này vẫn là một vùng phi thuế quan.
Trong năm 2001 có 3.420.788 người làm việc tại 396.288 cơ sở lao động. Sàn giao dịch chứng khoán lớn nhất ở Áo là Sàn giao dịch chứng khoán Viên với ATX là chỉ số chứng khoán lớn nhất.
Tổng sản phẩm quốc nội (2016): 387.299 USD (đứng thứ 29 thế giới và đứng thứ 13 châu Âu)
5% của tổng sản phẩm quốc nội liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến các môn thể thao mùa đông.
Thành phần:
Công nghiệp: 33%
Nông nghiệp: 2%
Dịch vụ: 65%
Thành phần lao động:
Công nghiệp: 27%
Nông nghiệp: 1%
Dịch vụ: 68%
Tỷ lệ thất nghiệp:
7,0% (4,5% theo cách tính của EU)
Các ngành kinh tế
Khoảng 85% diện tích Áo được sử dụng trong nông nghiệp (45 %) và lâm nghiệp (40 %).
Nông nghiệp Áo có cơ cấu rất nhỏ và đang cố gắng chuyên môn hóa vào các sản phẩm có chất lượng cao vì áp lực cạnh tranh đã tiếp tục tăng từ khi Liên minh châu Âu được mở rộng. Người nông dân Áo tăng cường sản xuất theo cách nông nghiệp sạch (nông nghiệp sinh học, không dùng hóa chất, phân bón hóa học...). Với tỷ lệ vào khoảng 10%, Áo có tỷ lệ các cơ sở sản xuất nông nghiệp sạch cao nhất trong Liên minh châu Âu.
Rượu vang là một sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu quan trọng của Áo. Nước nhập khẩu chính, bên cạnh Thụy Sĩ và Hoa Kỳ, là nước Đức, chiếm 2/3 tổng lượng.
Nhờ vào diện tích rừng lớn mà lâm nghiệp cũng là một yếu tố quan trọng, cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến gỗ và công nghiệp giấy. Gỗ là nguyên liệu cũng được xuất khẩu, đặc biệt là đi đến vùng Nam Âu. Ngược lại, săn bắn và ngư nghiệp tương đối không quan trọng và thường chỉ hoạt động cho thị trường trong nước hay chỉ là thú tiêu khiển.
Dịch vụ chiếm phần lớn nhất trong kinh tế Áo, đặc biệt là do ngành du lịch, thương mại và ngân hàng đóng góp. Cho đến ngày nay ngân hàng Áo vẫn còn hưởng ưu thế từ luật bảo vệ bí mật ngân hàng rất nghiêm khắc của Áo. Sau khi gia nhập Liên minh châu Âu, tính vô danh của tài khoản tuy bị hủy bỏ nhưng các cơ quan nhà nước chỉ được phép kiểm tra tài khoản khi có lệnh của tòa.
Cuộc điều tra dân số lần đầu tiên tương ứng với các tiêu chuẩn ngày nay được tiến hành trong Áo trong thời gian 1869/1870. Từ thời điểm đó dân số trên lãnh thổ của nước Áo ngày nay đã tăng hằng năm cho đến lần điều tra dân số cuối cùng trước khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ trong năm 1913. Cho đến khi Đế quốc Áo-Hung tan rã vào năm 1918 khi Chiến tranh thế giới thứ nhất chấm dứt, việc dân số trên lãnh thổ của nước Áo hiện nay tăng trưởng nhanh chóng là do di dân từ những nước ngày nay không còn thuộc Áo.
Cuộc điều tra dân số đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ nhất cho thấy dân số đã giảm đi 347.000 người. Thế nhưng dân số lại tiếp tục tăng trưởng liên tục ngay sau đó cho đến 1935, rồi lại giảm đi cho đến 1939, năm thực hiện điều tra dân số cuối cùng trước Chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ còn 6.653.000 người. Sau chiến tranh, vào năm 1946, dân số được điều tra dựa trên thẻ lương thực thực phẩm là tròn 7.000.000 người, là con số cao nhất cho đến thời điểm đấy. Dòng người tỵ nạn vào nước Áo đã bù vào cho con số tử vong vì chiến tranh.
Cho đến năm 1953, do người tỵ nạn phần lớn đã trở về lại quê hương hay tiếp tục di dân qua các nước khác, dân số lại giảm xuống còn 6.928.000 người. Từ đấy, do tỷ lệ sinh đẻ cao, dân số lại tiếp tục tăng đến điểm cao mới vào năm 1974, năm có 7.599.000 người sinh sống tại Áo. Từ thập niên 1990, do tiếp tục có di dân vào nước, dân số nước Áo đã tăng lên đến 8.260.000 người vào cuối năm 2004, tương ứng với 1,8% dân số của Liên minh châu Âu. Vào tháng 4 năm 2016, dân số Áo được ước tính là 8,72 triệu người[89]. Dân số của thủ đô Viên là hơn 1,8 triệu (2,6 triệu nếu tính cả các vùng ngoại ô), chiếm khoảng một phần tư dân số của đất nước.
Tuổi thọ trung bình của Áo tại thời điểm 2005 là 82,1 tuổi (phụ nữ) và 76.4 tuổi (nam giới). Trong năm 1971 tuổi thọ trung bình là 75,7 (phụ nữ) và 73,3 (nam giới). Tỷ lệ trẻ sơ sinh chết là 0,45%.
Theo dự đoán của Cục Thống kê Áo (Statistik Austria), cán cân của sinh đẻ và chết ở Áo sẽ còn cân bằng trong vòng 20 năm tới, sau đấy tỷ lệ sinh được dự đoán là sẽ thấp hơn tỷ lệ chết, việc sẽ làm tăng độ tuổi trung bình. Nhờ vào việc nhập cư mà dân số cho đến năm 2050 sẽ tăng lên đến khoảng 9 triệu người, bù đắp một phần vào cho việc thâm hụt sinh đẻ. Chỉ ở Viên, tiểu bang duy nhất trong số 9 bang của Áo, độ tuổi trung bình sẽ giảm đi và tăng trưởng dân số sẽ cao hơn trung bình của toàn liên bang. Theo đó cho đến năm 2050 Viên có thể lại trở thành thành phố có 2 triệu dân. Theo Cục Thống kê Áo nguyên nhân là do tỉ lệ sinh đẻ cao hơn và tròn 40% những người nhập cư vào Áo sinh sống tại thủ đô.
Di dân và nhập cư
Ngày nay, nước Áo, một trong những nước giàu của thế giới, là một nước di dân đến. Thế nhưng trong lịch sử không phải lúc nào cũng có tình trạng này. Vào thời kỳ công nghiệp hóa, mặc dù có nhiều cuộc di dân nội địa lớn từ Böhmen và Mähren, nhưng từ sau 1918 cho đến Chiến tranh thế giới thứ hai đã có nhiều người Áo di dân ra nước ngoài hơn là người từ các nước khác di dân vào Áo.
Từ khi có tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế và thịnh vượng bắt đầu từ thập niên 1950, việc đã làm cho nước Áo trở thành một nước giàu có và thịnh vượng, cán cân di dân lại bị đảo ngược. Nhiều lao động được tuyển lựa từ nước ngoài đã nhập cư vào nước Áo, dòng người tỵ nạn đến Áo, ví dụ như từ nước thuộc Nam Tư cũ, trong thời gian xảy ra chiến tranh tại bán đảo Balkan và ngày càng có nhiều người tỵ nạn từ Thổ Nhĩ Kỳ đến châu Âu nói chung và đến Áo nói riêng.
Vào thời kỳ công nghiệp hóa từ khoảng năm 1850 bắt đầu có những ghi chép đầu tiên về việc di dân ra khỏi nước Áo. Thế nhưng vào thời điểm đó còn có nhiều vùng đất thuộc Áo mà ngày nay đã trở thành quốc gia độc lập hay thuộc các quốc gia khác.
Giữa 1876 và 1910 tròn 3,5 triệu người (theo một số tài liệu khác là đến 4 triệu người) đã rời bỏ nước quân chủ Áo vì thất nghiệp và hy vọng sẽ tìm được những điều kiện sinh sống tốt hơn ở nơi khác. Gần 3 triệu người trong số đó đi đến Hoa Kỳ, 358.000 người chọn Argentina là quê hương thứ hai, 158.000 người đến Canada, 64.000 người đến Brasil và 4.000 người đến Australia.
Chỉ riêng năm 1907 đã có nửa triệu người Áo rời bỏ quê hương. Phần đông những người di dân là từ vùng Galicja trong Ba Lan và Ukraina ngày nay. Một làn sóng di dân mới bắt đầu với cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ năm 1929 và tiếp tục tăng lên trong những năm 1930 bất ổn về chính trị khi mối đe dọa Quốc xã trở thành hiện thực và bắt buộc nhiều người phải di dân đi trong năm 1938, phần đông là người Do Thái và những người bị Quốc xã truy nã. Cũng nằm trong số đó là một phần lớn tinh hoa khoa học và văn hóa trong thời gian này của nước Áo.
Trong các thập niên 1960 và 1970, do thiếu lao động nên nhiều doanh nghiệp đã trực tiếp tuyển chọn lao động từ nước ngoài. Rất nhiều gia đình của những người lao động này hiện nay đang sinh sống với thế hệ thứ hai hay thứ ba trong nước Áo. Một làn sóng lớn người tỵ nạn đã vào nước Áo trong những năm của thập niên 1990 vì chiến tranh ở bán đảo Balkan.
Tỷ lệ người nước ngoài chiếm 9,8% hay 814.000 người của dân số Áo, trong đó tròn 227.400 người xuất xứ từ các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu (trong đó khoảng 104.000 người từ nước Đức). Tròn nửa số người nhập cư và các thế hệ sau đó sinh sống trong vùng đô thị Viên, nơi tập trung khoảng 1/4 dân số nước Áo. Phần còn lại phân tán chủ yếu trong các vùng đông dân cư, chiếm tỷ lệ khoảng từ 10% đến 20%. Trong một số vùng nông thôn, tỷ lệ người nhập cư nằm trong khoảng từ 0 đến 5%. Trong thời gian vừa qua, hằng năm có khoảng 30.000 đến 40.000 người được nhận quốc tịch Áo (trong đó khoảng 28,5% sinh tại Áo), con số này đã giảm đi từ năm 2005.
Một hiện tượng mới xuất hiện trong những năm gần đây là người lao động từ Đức. Những người này thường là lao động theo thời vụ trong những vùng du lịch, đặc biệt là trong Tirol với các nghề nghiệp như đầu bếp, hầu bàn hay dọn dẹp. Nhiều người trong số đó đến Áo vì họ đã không thể tìm được việc làm trong nước Đức hay nhận thấy rằng cơ hội tìm việc làm ở Áo tốt hơn. Một dạng nhập cư khác của người Đức là con số ngày càng tăng của những người tốt nghiệp đại học ở Áo và không trở về quê hương nữa. Trong lĩnh vực những người tốt nghiệp đại học có thể nhận thấy một dòng người nhập cư nguyên là nhân viên của các trường đại học Đức (đặc biệt là trong lĩnh vực y học nhưng cũng có nhiều trong các bộ môn về xã hội). Luật lệ về thuế thu nhập cũng là một nguyên nhân cho việc di cư sang Áo, ví dụ như quan chức bóng đá Franz Beckenbauer hay người đua ô tô Ralf Schumacher.
Ngôn ngữ
Tiếng Đức là ngôn ngữ chính thức và là tiếng mẹ đẻ của khoảng 95% dân cư. Bên cạnh đó còn tiếng Slav và các ngôn ngữ khác của các dân tộc thiểu số. Những dân cư người Hung, người Sloven và người Croat lâu đời ở Áo có quyền được dùng tiếng mẹ đẻ của mình trong trường học và giao thiệp với chính quyền. Tiếng Croat và tiếng Sloven là các tiếng chính thức bổ sung ở các tỉnh hành chánh và tòa án vùng Steiermark, Burgenland và Kärnten.
Vào năm 2001, 73,6% dân số theo đạo Công giáo và 4,7% theo đạo Tin Lành (đa số là dòng tin Ausburg). Khoảng 12% dân số không theo cộng đồng tôn giáo nào. Cộng đồng Do Thái có vào khoảng 7.300 thành viên. Trên 10.000 người theo đạo Phật được công nhận là cộng đồng tôn giáo ở Áo từ năm 1983. Khoảng 20.000 là thành viên tích cực của cộng đồng tôn giáo Nhân chứng Jehova. Trong số những người di dân vào nước Áo có khoảng 180.000 là tín đồ Cơ đốc giáo và khoảng 300.000 người là tín đồ của các cộng đồng Hồi giáo.
Số lượng tín đồ Kitô giáo đang có xu hướng suy giảm, đến năm 2017 chỉ còn 57,9% người dân tự nhận mình theo Công giáo và 3,4% theo Tin lành, giảm đáng kể so với năm 2001[92].
Bình đẳng nam nữ và quyền con người
Quyền bình đẳng nam nữ được ghi trong Hiến pháp Áo. Những trường hợp ngoại lệ hình thành trong lịch sử là nghĩa vụ quân sự cho phái nam và quy định về nghỉ hưu. Hiện nay phụ nữ Áo còn được phép về hưu sớm hơn phái nam 5 năm (trường hợp ngoại lệ: nhân viên nhà nước). Vì việc này trái với quy định cơ bản của Liên minh châu Âu nên theo quy định được ghi trong hiến pháp, độ tuổi về hưu của phụ nữ sẽ được từng bước nâng lên ngang bằng với nam giới trong năm 2027.
Trong gần như tất cả các lĩnh vực, tiền lương trung bình của người phụ nữ đều thấp hơn nam giới (ngoại lệ: nhân viên nhà nước). Điều này về một mặt là do quyền bình đẳng không được thực hiện một cách triệt để trong thực tế và mặt khác là do nhiều người phụ nữ làm việc ít giờ hơn và vì thế gần như không có khả năng vươn lên trong sự nghiệp. Các vị trí lãnh đạo phần lớn là do nam giới nắm giữ.
Chính phủ Áo đã có rất nhiều biện pháp khuyến khích phụ nữ. Nếu như trình độ nghiệp vụ tương đương nhau người phụ nữ sẽ được ưu tiên lựa chọn cho các việc làm trong cơ quan nhà nước – mặc dù tỉ lệ thất nghiệp của nam giới cao hơn. Thế nhưng những biện pháp này không mang lại tác dụng cao trong thực tế. Con số chính thức của người thất nghiệp trong nước Áo năm 2004 bao gồm 2/3 nam giới và 1/3 phụ nữ.
Trong những năm vừa qua đã có một vài vụ hành hung của cảnh sát đối với người có nguồn gốc từ châu Phi gây xôn xao trong dư luận. Hai trong số các vụ này, Marcus Omofuma và Seibane Wague, đã dẫn đến tử vong. Các tổ chức bảo vệ quyền con người như Amnesty International đã phản đối cách xử phạt nhẹ dành cho những người phạm tội vẫn được tiếp tục phục vụ trong ngành cảnh sát.
Về quyền tự do ngôn luận, tòa án Áo trong những năm vừa qua đã có nhiều phán quyết dành cho nhà báo không đứng vững trước Tòa án châu Âu. Tòa án Áo đã bị chê trách rằng trong việc cân nhắc giữa quyền của một chính trị gia (bị xúc phạm) và quyền tự do ngôn luận trong truyền thông đại chúng tòa đã không chú ý đến quyền tự do ngôn luận một cách đầy đủ.
Hệ thống giáo dục tại Áo do cấp liên bang chịu trách nhiệm, vì thế là các loại trường cũng như chương trình đào tạo đều thống nhất trên toàn nước Áo. Tất cả trẻ em đang cư trú tại Áo đều phải đi học 9 năm, bắt đầu khi tròn 6 tuổi.
Các thành phố Áo có trường đại học là thủ đô Viên (8), các thủ phủ tiểu bang Linz (4), Salzburg (3), Graz (4), Innsbruck (3) và Klagenfurt cũng như là Leoben và Kremas. Trường đại học thực hành (Fachhochschule) như là một chọn lựa khác của hình thức đào tạo đại học đã tồn tại ở Áo từ 1994.
Giáo dục mầm non (gọi là Kindergarten trong tiếng Đức), miễn phí ở hầu hết các tiểu bang, được cung cấp cho tất cả trẻ em trong độ tuổi từ ba đến sáu tuổi và không mang tính bắt buộc. Quy mô mỗi lớp học tối đa là khoảng 30 trẻ em, mỗi lớp thường được chăm sóc bởi một giáo viên có trình độ và một trợ lý.
Giáo dục tiểu học, hoặc Volksschule, kéo dài trong bốn năm, bắt đầu từ khi trẻ lên sáu tuổi. Quy mô lớp học tối đa là 30 học sinh, nhưng có thể thấp tới 15. Nói chung, một lớp học sẽ được giảng dạy bởi một giáo viên trong suốt bốn năm và mối quan hệ ổn định giữa giáo viên và học sinh được coi là quan trọng cho mỗi đứa trẻ. Thời gian đi học thông thường là từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa hoặc 1 giờ chiều, với giờ nghỉ giải lao là năm hoặc mười phút sau mỗi tiết học. Trẻ em sẽ phải làm bài tập về nhà hàng ngày ngay từ năm đầu tiên. Không có giờ ăn trưa, với trẻ em trở về nhà để ăn. Tuy nhiên, do số lượng các bà mẹ làm việc tăng lên, các trường tiểu học đang tăng cường cung cấp các dịch vụ chăm sóc trước giờ học và buổi chiều.
Hạ tầng cơ sở giao thông, kể cả giao thông đường bộ lẫn giao thông đường sắt, đều chịu nhiều ảnh hưởng của địa thế nằm trên dãy núi Apls và về mặt khác là vị trí trung tâm trong Trung Âu. Giao thông qua dãy núi Alps đòi hỏi phải có nhiều hầm xuyên núi và cầu chịu đựng được điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Vì có vị trí ngay trong trung tâm châu Âu nên Áo là một nước quá cảnh, đặc biệt là cho hướng bắc-nam và bắc-đông nam và từ khi bức màn sắt được mở cửa là cho hướng đông-tây. Điều này cũng có nghĩa là thường phải mở rộng đường giao thông, ngay trong các khu vực nhạy cảm về sinh thái, việc hay dẫn đến phản đối trong quần chúng.
Để có thể giải quyết được sự cân bằng giữa kinh tế và sinh thái, nước Áo đã có nhiều biện pháp mà đã mang lại cho quốc gia này vai trò tiên phong trong lãnh vực bảo vệ môi trường, đặc biệt là trong lãnh vực xe cơ giới. Các đạo luật quy định trong mỗi một xe cơ giới đều phải có bộ xúc tác giảm thiểu khí thải ra đời ở Áo tương đối sớm so với các quốc gia khác. Trên nhiều đoạn đường nhất định chỉ cho phép lưu hành xe tải gây ít tiếng ồn. Thế nhưng do nhiều quy định lại bị bãi bỏ nên người dân trong một số vùng nhất định như trong vùng đồng bằng sông Inn cảm nhận là bị các cơ quan điều hành giao thông trong nước và quốc tế bỏ mặc.
Phần lớn đường sắt là do Công ty Đường sắt liên bang Áo (Österreichische Bundesbahn – ÖBB) vận hành, là công ty đường sắt lớn nhất Áo. Một phần nhỏ đường sắt không thuộc liên bang, một phần do tư nhân và một phần khác do các tiểu bang sở hữu.
S-Bahn (tàu nhanh) hiện nay chỉ có trong các vùng chung quanh Viên và Salzburg nhưng hiện đã có kế hoạch phát triển hệ thống S-Bahn cho các thành phố Graz, Linz và Insbruck.
Viên là thành phố Áo duy nhất có một mạng lưới tàu điện ngầm. Một vài bến tàu điện trong thành phố Linz được xây ngầm. Tàu điện có trong các thành phố Viên, Graz, Linz, Innsbruck và Gmunden. Ngoài ra tại làng Serfaus trong Tirol còn có một tàu chạy trên đệm không khí, thỉnh thoảng cũng còn được gọi là tàu điện ngầm nhỏ nhất thế giới.
Đường thủy
Đường thủy quan trọng nhất không những trong chuyên chở hành khách mà còn cho giao thông hàng hóa là sông Donau (Đọc đường thủy Donau). Giao thông chuyên chở hành khách đã được thúc đẩy từ thời triều đại Habsburg với DDSG là công ty giao thông đường thủy nội địa lớn nhất thế giới thời bấy giờ. Thế nhưng hiện nay giao thông chuyên chở hành khách chỉ chủ yếu phục vụ cho ngành du lịch, trên sông Donau cũng như trên sông Inn và các hồ lớn. Twin-City-Liner liên kết Viên với Bratislava vừa được thành lập là một kết nối giao thông tiện lợi cho những người phải đi làm xa. Thường thì giao thông đường thủy chỉ hoạt động trong nửa năm mùa hè. Trong giao thông hàng hóa gần như chỉ có sông Donau là được sử dụng. Đường thủy Donau đã được tăng giá trị sử dụng lên nhiều nhờ vào việc xây dựng Kênh đào Rhein-Main-Donau cho giao thông quá cảnh từ Biển Bắc xuống Biển Đen. Các cảng hàng hóa duy nhất của Áo là Linz, Enns, Krems và Viên.
Cảng hàng không quan trọng nhất là Cảng hàng không Wien-Schwechat, bên cạnh đó Graz (Cảng hàng không Graz-Thalerhof), Linz (Cảng hàng không Linz-Hörsching), Klagenfurt (Cảng hàng không Klagenfurt), Salzburg (Salzburg Airport W. A. Mozart) và Innsbruck (Cảng hàng không Innsbruck) đều có các đường bay quốc tế. Hai cảng hàng không quốc tế phục vụ cho vùng Vorarlberg là Altenrhein (Thụy Sĩ) và Friedrichshafen (Đức). Chỉ có tầm quan trọng địa phương là 49 sân bay, trong đó có 31 sân bay không có đường băng trải nhựa đường và trong số 18 sân bay còn lại có đường băng trải nhựa đường chỉ có 4 sân bay là có đường băng dài hơn 914 mét. Có tầm quan trọng về lịch sử trong số đó là sân bay Wiener Neustadt và sân bay Aspern. Đấy là các sân bay đầu tiên của Áo mà sân bay Aspern từ thời điểm khánh thành năm 1912 cho đến khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ năm 1914 đã là sân bay lớn nhất và hiện đại nhất châu Âu. Thêm vào đó là nhiều sân bay của Không quân Áo ví dụ như tại Wiener Neustadt, Zeltweg, Aigen/Ennstal, Langenlebarn/Tulln.
Nước Áo cũng đạt tầm quan trọng quốc tế trong ngành hàng không nhờ vào việc sáp nhập việc kiểm tra tầng không lưu cao (từ 28.500 feet hay 9.200 mét) của 8 quốc gia Trung Âu (Áo, Bosna và Hercegovina, Cộng hòa Séc, Croatia, Hungary, Ý, Slovenia và Slovakia). Chương trình được gọi là CEATS (Central European Air Traffic Services) dự định đặt một trung tâm kiểm tra cho toàn bộ vùng không lưu cao Trung Âu (CEATS Upper Area Control Centre – CEATS UAC) tại Fischamend,về phía đông của Schwechat.
Năng lượng điện được sản xuất phần nhiều (gần 60%) từ sức nước, từ các nhà máy thủy điện cạnh sông Donau, Enns, Drau và nhiều nhà máy thủy điện nhỏ khác cũng như từ các nhà máy có hồ chứa nước như Karprun hay Malta. Để có thể cung cấp đủ năng lượng trong thời gian cao điểm nhiều nhà máy nhiệt điện (tuốc bin) sẽ được vận hành. Khoảng 2% năng lượng điện được sản xuất từ năng lượng gió, chủ yếu trong vùng phía đông nhiều gió của Áo.
Điện từ nhà máy điện hạt nhân không được sản xuất do có luật cấm (Atomsperrgesetz). Trong những năm của thập niên 1970 nhà máy điện hạt nhân Zwentendorf mặc dù được xây dựng nhưng chưa từng đi vào hoạt động theo kết quả của cuộc trưng cầu dân ý vào năm 1978.
Cung cấp khí đốt và dầu
Về cung cấp khí đốt, Áo phụ thuộc nhiều vào nước ngoài. Mặc dù trong Áo cũng có khí đốt, chủ yếu tại Marchfeld và Weinviertel, nhưng chỉ đủ cung cấp tròn 20% nhu cầu khí đốt hằng năm của Áo. Nước Nga là nguồn cung cấp khí đốt chính, là nơi mà Áo từ 1968 là nước châu Âu đầu tiên nằm về phía tây của Bức màn sắt mua khí đốt.
Vào thời điểm năm 2003Ả Rập Xê Út là nước cung cấp dầu chính cho Áo. Nhà máy lọc dầu duy nhất nằm tại Schwechat và do OVM AG vận hành.
Hệ thống cứu cấp
Mỗi một hình thức phục vụ cứu cấp ở Áo thường có trung tâm điều hành riêng. Tất cả các số điện thoại cứu cấp đều có thể được gọi không tốn tiền tại mỗi một điện thoại công cộng. Các số điện thoại cứu cấp đều thống nhất trên toàn nước Áo, "122" cho cứu hỏa, "133" cho cảnh sát và "144"cho cứu thương. Ngoài ra còn có thể gọi không tốn tiền các số điện thoại cứu cấp khác như số điện thoại cứu cấp toàn Liên minh châu Âu "112".
Hệ thống cứu hỏa Áo gần như hoàn toàn dựa trên lực lượng cứu hỏa tình nguyện. Chỉ trong 6 thành phố lớn nhất của Áo là có lực lượng cứu hỏa chuyên nghiệp. Phòng cháy và chữa cháy thuộc thẩm quyền của từng tiểu bang trong khi phòng chống tai họa thuộc thẩm quyền của liên bang, nhưng có trách nhiệm thực hiện bên cạnh quân đội thông qua lực lượng hỗ trợ phòng chống tai họa (Katastrophenhilfsdienst) cũng là lực lượng cứu hỏa.
Lực lượng cứu thương (Rettungsdienst) được thông báo khi xảy ra tai nạn có người bị thương. Hội Chữ thập đỏ Áo chịu trách nhiệm cứu thương đặc biệt là trong vùng nông thôn. Bên cạnh đó, các tổ chức khác như Liên hiệp Samarit Công nhân (Arbeiter-Samarit-Bund), Tổ chức giúp đỡ tai nạn Johannit (Johanniter-Unfall-Hilfe), Hệ thống bệnh viện Dòng tu Malta Áo (Malteser Hospitaldienst Austria) và Chữ thập Xanh đều có trực cứu cấp. Trong Viên, nhiệm vụ này được chia sẻ giữa lực lượng cứu thương thành phố và các tổ chức giúp đỡ. Trực thăng cứu thương đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống cứu thương Áo. Đất nước này có mật độ trực thăng cứu thương cao nhất thế giới. Hiệp hội cứu thương đường không Christophorus (Christophorus Flugrettungsverein) sở hữu 16 chiếc trực thăng cứu thương bao phủ toàn diện tích nước Áo, bên cạnh đó, đặc biệt là trong các vùng du lịch, là nhiều dịch vụ tư nhân.
Đài truyền hình nhà nước của Áo là ORF (Österreichischer Rundfunk) với các kênh ORF 1 và ORF 2 cũng như là hai kênh TW1 và ORF SPORT PLUS cùng chia sẻ một băng tần phát sóng. Các đài tư nhân quan trọng nhất là ATV, goTV, Puls TV.
ORF có ba kênh phát thanh toàn Áo: kênh phát thanh tin tức và văn hóa Ö1, kênh âm nhạc Ö3 và đài phát thanh FM4. Các đài phát thanh tư nhân quan trọng nhất và được ưa thích nhất là KroneHit, Radio Energy trong Viên và Antenne trên toàn nước Áo.
Nhà xuất bản Mediaprint phát hành tờ nhật báo được ưa thích nhất Áo, Kronen Zeitung, cũng như là các báo được ưa thích NEWS, Profil và Kurier và vì thế là nhà xuất bản có nhiều quyền lực nhất Áo. Các nhật báo khác là Der Standard, Die Presse và Salzburger Nachrichten.
Thông tin
Mặc dù có nhiều điều kiện khó khăn về địa hình nhưng Áo vẫn có một mạng lưới viễn thông tốt. Trên thực tế toàn bộ lãnh thổ liên bang đều được kết mạng cho điện thoại cố định và được phủ sóng cho điện thoại di động. Các dịch vụ như UMTS hiện chỉ hoạt động trong các vùngđông dân cư nhưng được mở rộng liên tục. Thuộc trongsố các nhà cung ứng dịch vụ truyền thông lớn nhất là Telekom Austria, Mobilkom Austria, Drei, T-Mobile và Tele2.
Internet vận tốc cao thật ra đều có trong toàn nước Áo. Nhà vận hành mạng ớn nhất là Austria Telekom. Các nhà cung ứngdịch vụ khác hiện đang cố gắng xây dựng mạng lưới cao tốc riêng. Phần lớn các mạng này nằm trong các trung tâm đông dân cư.
Văn hóa là một đề tải rộng lớn ở Áo: Trong tất cả các thời kỳ đều hình thành nhiều công trình xây dựng quan trọng mà trong số đó nhiều công trình thuộc về di sản thế giới của UNESCO. Trong thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX Viên là một trung tâm hàng đầu của cuộc sống âm nhạc, không những chỉ được thể hiện trong con số rất nhiều tên tuổi các nhạc sĩ và nhà soạn nhạc gắn bó với đất nước mà còn trong con số lớn các nhà hát opera, nhà hát và nhà hòa nhạc vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, cũng như trong những thuyền thống âm nhạc đa dạng như buổi hòa nhạc năm mới hay rất nhiều lễ hội. Thêm vào đó là một truyền thống nhà hát lâu đời. Thế nhưng trong lãnh vực ẩm thực Áo cũng có một truyền thống rộng lớn, được thể hiện ví dụ như trong văn hóa của các quán cà phê ở Viên hay qua nhiều món ăn đặc trưng của đất nước. Năm 2003 thành phố Graz đã là thủ đô văn hóa của châu Âu.
Buổi hòa nhạc năm mới của Wiener Philharmoniker nổi tiếng được truyền đi đến 44 quốc gia trên thế giới và vì thế vào buổi sáng năm mới ngày 1 tháng 1 đến với gần một tỉ người.
Môn thể thao được người Áo ưa chuộng nhất là chạy ski, tiếp theo sau đó là bóng đá và chạy xe đạp. Thế nhưng đi dạo hay leo núi ngày cũng được ưa thích hơn trong mọi lứa tuổi.
Áo cũng thường đạt nhiều thành tích đáng kể trong các bộ môn thể thao mùa hè hay trong những bộ môn thể thao có thể được chơi trong suốt cả năm. Thế nhưng ngoại trừ bóng đá, các bộ môn thể thao này không được người dân ưa thích nhiều như thể thao mùa đông.
Thể thao trong các câu lạc bộ hay hiệp hội được đánh giá cao trong Áo. Trong một số làng hay thành phố hơn nửa người dân luyện tập thể thao tích cực trong các câu lạc bộ hay hiệp hội. Trước nhất là bóng đá, đặc biệt là ở tại Viên, bộ môn thể thao có truyền thống lâu đời, và sau đó là một vài bộ môn thể thao ít được biết đến hơn có nhiều người tham gia. Hypo Österreich thuộc hàng đầu của thế giới trong bóng ném nữ cũng như là Chrysler Vienna Vikings trong bóng bầu dục nghiệp dư.
^Manfried Rauchensteiner: Der Sonderfall. Die Besatzungszeit in Österreich 1945 bis 1955 (The Special Case. The Time of Occupation in Austria 1945 to 1955), edited by Heeresgeschichtliches Museum / Militärwissenschaftliches Institut (Museum of Army History / Institute for Military Science), Vienna 1985
^“The Austrian National Day”. Austrian Embassy, Washington (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2018.
Pulau Terre-de-bas merupakan pulau terbesar di archipelago Îles des Saintes di Guadeloupe. Dimiliki oleh komune (kotamadya) Terre-de-Bas. Pulau ini memiliki dua daerah wisata: pantai Grande Anse Le Cimetière marin (pemakaman di laut) Artikel bertopik geografi atau tempat Guadeloupe ini adalah sebuah rintisan. Anda dapat membantu Wikipedia dengan mengembangkannya.lbs
Babur Babur (Urdu: بابر) (dinamai pertama Kaisar Mughal Zahir ud-Din Babur), juga dinamakan Hatf VII, adalah rudal serangan darat pertama yang diproduksi dan diluncurkan oleh Pakistan. Babur dapat diluncurkan dari peluncur rudal darat, kapal perang dan kapal selam. Babur Juga dapat dipersenjatai dengan hulu ledak konvensional atau nuklir dengan jangkauan jarak 700 km (430 mil). Rudal ini dirancang untuk dapat menghindari deteksi radar dan menembus pertahanan udara musuh. rudal Babur perta...
Kaisar Taishō大正天皇Potret resmi, 1912Kaisar Jepang ke-123Berkuasa30 Juli 1912 – 25 Desember 1926 (14 tahun, 148 hari)Penobatan10 November 1915PendahuluKaisar MeijiPenerusKaisar ShōwaPerdana Menteri Lihat Daftar Katsura Taro Yamamoto Gonnohyoe Ōkuma Shigenobu Terauchi Masatake Hara Takashi Uchida Kosai (acting) Takahashi Korekiyo Kato Tomosaburo Yamamoto Gonnohyoe Kiyoura Keigo Kato Takaaki Wakatsuki Reijiro Informasi pribadiKelahiran(1879-08-31)31 Agustus 1879 Tokyo, Keka...
Mountain-climbing cog railway in New Hampshire, United States For the defunct railway in Los Angeles, see Los Angeles and Mount Washington Railway. Mount Washington Cog RailwayTrack with rackOverviewLocaleCoos County, New Hampshire, U.S.HistoryOpened1868TechnicalLine length3 miles (4.8 km)[1]Rack systemMarsh rack systemTrack gauge4 ft 8 in (1,422 mm) Route map Legend Mount Washington summit Appalachian Trail Skyline siding(removed) Waumbek station and pa...
Italian asset management company Azimut Holding S.p.A.Company typeSocietà per AzioniTraded asBIT: AZMFTSE MIB ComponentIndustryFinancialFounded1990; 34 years ago (1990)HeadquartersMilan, ItalyKey peoplePietro Giuliani (Chairman), Gabriele Blei (CEO), Massimo Guiati (CEO), Paolo Martini (CEO), Giorgio Medda (CEO), Alessandro Zambotti (CEO and CFO)Productsasset management; wealth managements; investment banking s; fintechsNet income €402 million (2022)Number of employe...
Sunshine State ConferenceAssociationNCAAFounded1975CommissionerEd Pasque (since 2014)Sports fielded 18 men's: 8 women's: 10 DivisionDivision IINo. of teams11HeadquartersMelbourne, FloridaRegionFloridaOfficial websitesunshinestateconference.comLocations The Sunshine State Conference is a college athletic conference affiliated with the National Collegiate Athletic Association (NCAA) at the Division II level. All of its member institutions are located in the state of Florida, which is popularly ...
Questa voce sull'argomento calciatori norvegesi è solo un abbozzo. Contribuisci a migliorarla secondo le convenzioni di Wikipedia. Segui i suggerimenti del progetto di riferimento. John Sveinsson Nazionalità Norvegia Altezza 180 cm Peso 83 kg Calcio Ruolo Attaccante CarrieraSquadre di club1 19??-19?? Lyn Oslo? (?)Nazionale 1945-1951 Norvegia3 (1)Carriera da allenatore 1963-1966 Lyn Oslo 1 I due numeri indicano le presenze e le reti segnate, per le sole partite di campi...
For the former local government district, see Sedgley Urban District. For the surname, see Sedgley (surname). Not to be confused with Sedgeley. This article needs additional citations for verification. Please help improve this article by adding citations to reliable sources. Unsourced material may be challenged and removed.Find sources: Sedgley – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (June 2016) (Learn how and when to remove this message) Human s...
ColbertIl Colbert ormeggiato a Bordeaux nel 2006Descrizione generale Tipoincrociatore antiaereo (CAA)incrociatore missilistico (CLM) Classeunica In servizio con Marine nationale IdentificazioneC 611 Ordine1953 CantiereBrest Impostazione17 maggio 1954 Varo24 marzo 1956 Entrata in servizio5 maggio 1959 Ammodernamento1970-1972 IntitolazioneJean-Baptiste Colbert Fuori servizio24 maggio 1991 Destino finaledemolita nel 2018 Caratteristiche generaliDislocamento11.300 t Lunghezza184,47 m Lar...
Si ce bandeau n'est plus pertinent, retirez-le. Cliquez ici pour en savoir plus. Cette section ou cet article est une traduction incomplète (mai 2011). Vous pouvez modifier la page pour effectuer la traduction. Poncke PrincenPoncke PrincenBiographieNaissance 21 novembre 1925La HayeDécès 22 février 2002 (à 76 ans)JakartaNationalité néerlandaiseActivités Militant pour les droits de la personne humaine, résistant, avocat, homme politiqueAutres informationsLieu de détention Camp de...
Passenger and cargo ship SS Hebrides in her early years History United Kingdom NameSS Hebrides Owner 1898: John McCallum, Glasgow 1930: McCallum, Orme & Co., Glasgow 1955: David MacBrayne RouteHebrides Builder Ailsa Shipbuilding Company Engines by A & J Inglis Yard number70 Launched24 March 1898[1] HomeportGlasgow FateBroken up at Port Glasgow 1955 General characteristics Tonnage585 GRT Length180 ft (54.9 m) Beam28.1 ft (8.6 m) Draught13.2 ft (4.0...
Para el municipio de la provincia de Salamanca, véase Moriscos (municipio). Embarco de moriscos en el Grao de Valencia, de Pere Oromig. Los moriscos (palabra que deriva de moro) fueron los musulmanes del al-Ándalus bautizados tras la pragmática de conversión forzosa de los Reyes Católicos de 1502 en la Corona de Castilla, medida que las Cortes retrasaron en la Corona de Aragón hasta 1526. Tanto los convertidos con anterioridad al catolicismo de forma voluntaria como los convertidos obl...
البحار مندي كتابة صالح مرسي إخراج هانى لاشين سيناريو محمد الباسوسي بطولة أحمد عبد العزيز نرمين الفقي حسن حسني ندى بسيوني خيرية أحمد البلد مصر تعديل مصدري - تعديل يفتقر محتوى هذه المقالة إلى الاستشهاد بمصادر. فضلاً، ساهم في تطوير هذه المقالة من خلال إضافة مصادر موثو�...
هذه المقالة يتيمة إذ تصل إليها مقالات أخرى قليلة جدًا. فضلًا، ساعد بإضافة وصلة إليها في مقالات متعلقة بها. (يونيو 2022) أديبة نور معلومات شخصية الميلاد 3 سبتمبر 1970 كوالالمبور الوفاة 18 يونيو 2022 (51 سنة) كوالالمبور سبب الوفاة سرطان المبيض مواطنة ماليزيا الحيا�...
Venere e le tre Grazie offrono doni a una giovaneAutoreSandro Botticelli Data1486 circa Tecnicaaffresco Dimensioni211×284 cm UbicazioneMusée du Louvre, Parigi Venere e le tre Grazie offrono doni a una giovane è un affresco staccato (211x284 cm) di Sandro Botticelli, databile al 1486 circa e conservato nel Museo del Louvre di Parigi. Con il Giovane introdotto tra le Arti Liberali forma il ciclo di villa Lemmi Tornabuoni, residenza suburbana presso Firenze, del quale fa parte anche un a...
Village in Kerman province, Iran For the administrative division, see Momenabad Rural District. For other places with the same name, see Mowmenabad. Village in Kerman, IranMowmenabad Persian: مؤمنآبادVillageMowmenabadCoordinates: 28°56′33″N 58°31′50″E / 28.94250°N 58.53056°E / 28.94250; 58.53056[1]CountryIranProvinceKermanCountyNarmashirDistrictRud AbRural DistrictMomenabadPopulation (2016)[2] • Total1,711Time zon...
Квантова механіка Коротка назва QM, MC, MQ, MQ, CHLT і КМ Творець Макс Планк, Альберт Ейнштейн, Луї де Бройль, Ервін Шредінгер, Вернер Гейзенберг, Джон фон Нейман, Поль Дірак, Вольфганг Паулі, Макс Борн, Паскуаль Йордан і Джон Стюарт Белл Дата пу...