Các loài chim ở Thái Lan bao gồm 1095 loài tính đến năm 2021. Trong số đó, 7 loài đã được con người du nhập và 8 loài đã bị tuyệt chủng cục bộ.[1]
Các loài chim ở Thái Lan chủ yếu là các loài thuộc vùng sinh thái Indomalaya có mối quan hệ với tiểu lục địa Ấn Độ phía tây, trong đó đặc biệt là khu vực miền Nam Thái Lan có hệ động vật vùng Sundaland ở phía đông nam. Các ngọn núi phía bắc là phần tách ngoài của Cao nguyên Tây Tạng với nhiều loài chim núi và vào mùa đông, hệ chim của vùng được tăng thêm bởi những loài di cư từ phía đông Cổ Bắc giới và Himalaya. Môi trường sống của Thái Lan tiếp giáp với các quốc gia láng giềng, là lí do giải thích vì sao số lượng các loài đặc hữu thấp.
Năm 1991, ước tính có 159 loài và 23 loài chim di cư đang bị đe dọa hoặc dễ bị tổn thương do phá rừng, khai thác gỗ bất hợp pháp, săn bắt và mất môi trường sống, đặc biệt là ở các vùng trũng. Các loài bị ảnh hưởng nhiều nhất là các loài chim nước lớn vì môi trường sống đất ngập nước của chúng phần lớn bị mất bởi các hoạt động nông nghiệp và các loài chim rừng do nạn phá rừng lấy đất nông nghiệp và khai thác gỗ đã làm mất đi và làm suy thoái các phần của rừng.[2]
Nghiên cứu phân loại (chỉ rõ và tuân theo trình tự bộ, họ và loài) và danh pháp (tên thường gọi và tên khoa học) của danh sách này là những danh sách nằm trong The Clements Checklist of Birds of the World, tái bản năm 2018.[3] Các chỉ định như hiếm gặp, du nhập, tuyệt chủng cục bộ và các ghi chú về tình trạng số lượng trên toàn thế giới, chẳng hạn như "cực kỳ nguy cấp" là của Bird Checklists of the World. Các ghi chú về tình trạng ở Thái Lan như "trú đông" là của Lekagul and Round (1991). Các loài có cột tình trạng bỏ trống được chỉ định là loài cư trú hoặc một phần các loài cư trú không quý hiếm.[2][4]
Một vài loài không có tên gọi thông thường trong tiếng Việt, đối với những loài này, cột "Tên thông thường" bị bỏ trống.
Họ Vịt bao gồm vịt và hầu hết các loài thủy điểu giống vịt như ngỗng và thiên nga. Những loài này thích nghi được với lối sống thủy sinh khi bàn chân có màng, mỏ phẳng và bộ lông vũ chống thấm nước rất tốt nhờ một loại mỡ đặc biệt.
Họ Hồng hạc gồm những loài chim lội nước, thường cao 3 đến 5 foot (0,9 đến 1,5 m), sống ở cả Tây và Đông bán cầu. Thức ăn của chim hồng hạc là các động vật có vỏ và tảo. Những cái mỏ có hình dạng kỳ lạ của chúng có cơ chế đặc biệt để tách bùn và phù sa ra khỏi thức ăn; đặc biệt khi ăn, mỏ của chúng đưa ngược lên.
Họ Chim lặn gồm những loài chim lặn nước ngọt có kích thước nhỏ đến trung bình. Chúng có những ngón chân thùy và bơi cũng như lặn khá thành thạo. Bàn chân của chúng đặt xa cơ thể, khiến chúng trông khá vụng về khi ở trên đất liền.
Họ Cu cu gồm chim cu, chẹo đất và ani. Những loài này có kích thước khác nhau với thân hình thanh mảnh, đuôi dài và chân khỏe. Nhiều loài chim cu Cựu Thế giới là những loài ký sinh nuôi dưỡng.
Họ Cú muỗi mỏ quặp gồm một nhóm các loài chim săn mồi hoạt động về đêm có quan hệ với họ Cú muỗi. Tên của họ được đặt theo mỏ quặp dẹt lớn và miệng há ra giống miệng ếch dùng để bắt côn trùng.
Họ Cú muỗi gồm những loài chim sống về đêm có kích cỡ trung bình, làm tổ trên mặt đất với đôi cánh dài, chân ngắn và mỏ rất ngắn. Hầu hết đều có bàn chân nhỏ, ít được sử dụng để đi và đôi cánh dài nhọn. Bộ lông mềm mại của chúng được ngụy trang để giống với vỏ cây hoặc lá cây.
Họ Yến gồm những loài chim nhỏ dành phần lớn thời gian trong cuộc đời của chúng để bay lượn. Những con chim này có chân rất ngắn và không bao giờ đậu trên mặt đất mà chỉ bám vào các bề mặt thẳng đứng. Nhiều loài có cánh chạy dài ra sau giống như lưỡi liềm hay boomerang.
Họ Gà nước là một họ lớn gồm các loài chim có kích thước nhỏ đến trung bình gồm gà nước, cuốc, sâm cầm và kịch. Thông thường, chúng sống ở nơi có thực vật dày đặc trong môi trường ẩm ướt gần hồ, đầm lầy hoặc sông. Nhìn chung chúng là loài chim nhút nhát nên khó quan sát. Hầu hết các loài có chân khỏe và ngón chân dài thích nghi tốt với bề mặt mềm không bằng phẳng. Chúng có xu hướng có đôi cánh ngắn, tròn và có vẻ bay yếu.
Họ Sếu gồm các loài chim lớn có cổ dài và chân dài. Khác với họ Diệc dù có vẻ ngoài khá giống nhau, họ Sếu không có bà con với họ Diệc và khi bay có cổ vươn ra, không bị rụt lại. Hầu hết ở các loài, con trống tán tỉnh con mái một cách kĩ lưỡng và ồn ào hoặc có "vũ đạo" riêng.
Họ Burin được tìm thấy trên toàn thế giới trong các vùng nhiệt đới, một vài loài còn có thể sinh sản trong khí hậu ôn hòa ở châu Âu và Australia. Chúng là những loài chim lội có kích thước từ trung bình đến lớn với mỏ mạnh màu đen hoặc vàng đen, mắt rộng màu vàng và bộ lông kín. Mặc dù được xếp vào nhóm chim lội, hầu hết các loài đều thích sống ở môi trường sống khô cằn hoặc bán khô cằn.
Họ Cà kheo là một họ chim lội lớn trong đó gồm có chi Recurvirostra và chi Himantopus. Các loài thuộc chi Recurvirostra có chân dài và mỏ dài cong lên. Các loài thuộc chi Himantopus có chân cực dài và mỏ thẳng, mỏng, dài.
Họ Choi choi bao gồm các loài choi choi, cao cẳng và te te. Chúng là loài chim có kích thước nhỏ đến trung bình với thân hình nhỏ gọn, cổ dày ngắn và cánh dài, thường nhọn. Chúng được tìm thấy ở các quốc gia mở trên toàn thế giới, chủ yếu là ở môi trường sống gần nước.
Họ Gà lôi nước là một nhóm các loài chim lội được tìm thấy khắp vùng nhiệt đới. Chúng có thể được nhận dạng bằng bàn chân và móng vuốt khổng lồ cho phép chúng đi bộ trên thảm thực vật nổi trong các hồ nước nông, là môi trường sống ưa thích của chúng.
Họ Dẽ là một họ chim lớn gồm các loài chim bờ biển có kích thước nhỏ và trung bình bao gồm các loài dẽ, nhát và choắt, chi Tringa, chi Heteroscelus, chi Scolopax, chi Limnodromus và chi Phalaropus. Phần lớn các loài ăn các loại thức ăn là động vật không xương sống nhỏ mà chúng kiếm được trong bùn hay đấtl. Chiều dài khác nhau của chân và mỏ cho phép các loài khác nhau có thể cùng sinh sống trong một môi trường sống, cụ thể là ven biển, mà không có sự cạnh tranh trực tiếp về thức ăn.
Họ Cun cút là các loài chim có kích thước rất nhỏ, mình tròn, đuôi ngắn, có xu hướng chạy nhiều hơn bay giống chim cút. Chim mái màu sáng hơn chim trống và là con chủ động trong quan hệ sinh dục. Con trống ấp trứng và chăm sóc con non.
Họ Dromadidae có họ hàng với các loài chim lội, nhưng họ này chỉ có một thành viên duy nhất là loài Dromas ardeola. Loài này giống với choi choi nhưng lại có chân rất dài màu xám và chiếc mỏ đen khỏe mạnh giống với họ Nhàn. Chúng có bộ lông màu đen-trắng, cổ dài, chân có một phần màng và chiếc mỏ dùng để ăn cua.
Họ Dô nách là họ các loài chim lội bao gồm các loài thuộc phân họ Glareolinae có chân ngắn, cánh dài và nhọn, đuôi dài tẻ ra và các loài thuộc phân họ Cursoriinae có chân dài, cánh ngắn và mỏ nhọn dài, cong xuống phía dưới.
Họ Cướp biển nhìn chung là các loài chim có kích thước từ trung bình đến lớn, thường có lông màu xám hoặc màu nâu và thường có dấu màu trắng trên cánh. Chúng làm tổ trên mặt đất ở vùng ôn đới và Bắc cực và là loài di cư đường dài.
Họ Mòng biển là một họ các loài chim biển có kích thước từ trung bình đến lớn gồm các loài hải âu, nhàn và xúc cá. Chúng thường có màu xám hay trắng, với các đốm đen trên đầu hay cánh. Chúng có mỏ dài và khỏe, chân có màng bơi. Nhàn là một nhóm các loài chim nhìn chung có kích thước trung bình đến nhỏ thường có lông màu xám hay trắng, với các đốm đen trên đầu. Hầu hết chim nhàn săn cá bằng cách lặn nhưng một số bắt các côn trùng trên mặt nước ngọt. Nhàn thường là các loài chim sống lâu, với một số loài được biết đến sống hơn 30 năm. Xói cá là họ nhỏ các loài chim nhiệt đới có vẻ ngoài trông giống nhàn. Chúng có hàm dưới kéo dài hơn dùng để kiếm ăn bằng cách bay thấp trên mặt nước và lướt qua mặt nước xúc các con cá nhỏ vào.
Họ Chim nhiệt đới là những loài chim trắng mảnh khảnh sinh sống ở vùng biển nhiệt đới có các lông đuôi trung tâm dài. Đầu và cánh dài của chúng có những vết đen.
Họ Hải âu mày đen là một trong những họ các loài chim bay lớn nhất và những con hải âu lớn thuộc chi Diomedea có sải cánh lớn nhất trong số các loài chim còn tồn tại.
Họ Hải yến gồm những loài chim nhỏ dành phần lớn cuộc đười sống trên biển và lên bờ chỉ để sinh sản. Chúng ăn động vật phù du và cá nhỏ nhặt ở mặt nước, thông thường trong khi lơ lửng hoặc vỗ cánh lướt trên mặt nước. Chuyến bay của các loài thuộc họ này chập chờn và đôi khi giống dơi.
Họ Hải âu là nhóm các loài chim "hải âu thực sự" có kích thước trung bình, đặc trưng bởi lỗ mũi thông với vách ngăn giữa và dãy các cơ quan chức năng sơ cấp bên ngoài.
Họ Hạc gồm những loài chim lội lớn, chân dài, cổ dài với mỏ dài, to và khỏe. Họ này hầu như im lặng, nhưng việc chạm mỏ lại là một chế độ giao tiếp quan trọng tại tổ. Tổ của chúng rộng và có thể dùng lại trong nhiều năm. Nhiều loài di cư đến nơi khác.
Cốc biển là loài chim biển lớn thường được tìm thấy ở các biển nhiệt đới. Loài chim này lớn, có màu trắng và đen, hay đen hoàn toàn, với đôi cánh dài và đuôi chẻ. Con trống có túi bướu cổ màu đỏ, được bơm căng lên vào mùa sinh sản để thu hút con mái. Chúng không bơi hoặc đi và không thể cất cánh từ một bề mặt phẳng. Có tỷ lệ sải cánh trên cơ thể lớn nhất trong các loài chim, cuộc sống của chúng cơ bản là ở trên không, khi chúng có thể ở trên không hơn một tuần.
Các loài ó biển và chim điên là các loài chim biển sống ven bờ có kích thước từ trung bình tới lớn, có hoạt động săn bắt mồi (cá) bằng cách lao mình xuống nước.
Họ Chim cổ rắn còn được gọi là "chim rắn" vì chúng có cổ dài, khiến chúng có vẻ ngoài tương tự như những con rắn khi chúng bơi với phần thân chìm dưới mặt nước. Con trống có bộ lông màu đen hay nâu sẫm, mào mọc thẳng đứng trên đầu và mỏ lớn hơn của con mái. Chim mái có bộ lông nhạt màu hơn, đặc biệt là trên cổ và các phần dưới. Các chân chim cổ rắn có màng bơi, ngắn và ở gần phần cuối của thân. Bộ lông của chúng có thể thấm nước, tương tự như của chim cốc nên chúng phải rũ cánh để làm khô sau khi bơi lặn
Họ Cốc là họ các loài chim ăn cá có kích cỡ từ trung bình đến lớn bao gồm chim cốc và chim cốc mào. Với màu sắc lông không giống nhau, đa phần các loài chủ yếu có bộ lông màu đen, nhưng một vài loài có lông màu đen cùng với trắng và một vài loài có bộ lông sặc sỡ hơn.
Họ Diệc bao gồm các loài diệc nâu, diệc và diệc bạch. Diệc và diệc bạch là những loài chim lội có kích thước từ trung bình đến lớn với chân và cổ dài. Diệc nâu có cổ ngắn và có lối sống thận trọng hơn. Không giống các loài chim cổ dài khác như hạc, cò quăm và cò thìa, các thành viên họ Diệc rút cổ lại khi bay.
Họ Cò quăm là một họ bao gồm các loài chim lớn sống trên đất liền và lội nước bao gồm chi Threskionithinae (cò quăm) và Plateinae (cò thìa). Các thành viên trong họ có cánh dài, rộng với 11 lông cánh sơ cấp và khoảng 20 lông thứ cấp. Chúng là các loài chim bay khỏe đáng ngạc nhiên. Mặc dù có kích thước và khối lượng lớn, chúng là những loài chim bay vút lên rất nhanh.
Họ Ưng là họ gồm các loài chim ăn thịt được nhiều người biết đến như diều hâu, đại bàng, diều mướp, ó, ưng và kền kền Cựu thế giới. Những con chim này chủ yếu có mỏ dạng móc mạnh để xé thịt từ con mồi, chân mạnh, móng vuốt mạnh và thị lực tốt.
Họ Cú mèo là những loài chim săn mồi đơn độc có kích thước từ nhỏ đến lớn. Chúng có đôi mắt và đôi tai hướng về phía trước, mỏ giống chim ưng và một vòng tròn lông dễ thấy xung quanh mỗi mắt được gọi là đĩa mặt.
Họ Nuốc bao gồm các chim nuốt và quetzal. Được tìm thấy ở vùng rừng nhiệt đới trên toàn thế giới, các loài chim này ăn sâu bọ và trái cây, mỏ rộng và đôi chân yếu phản ánh chế độ ăn uống và thói quen của chúng. Mặc dù bay rất nhanh, chúng lại không muốn bay ở bất kỳ khoảng cách nào. Chim nuốc có lông mềm, thường sặc sỡ và con trống có bộ lông khác con mái.
Họ Hồng hoàng là nhóm các loài chim có mỏ giống với sừng bò nhưng không xoắn, đôi khi có sừng ở xương hàm trên. Thông thường, mỏ của các loài có màu sắc rực rỡ.
Họ Trảu gồm các loài đa phần được tìm thấy ở châu Phi và số còn lại xuất hiện ở phía nam châu Âu, phía nam châu Á, Australia và New Guinea. Chúng đặc trưng bởi bộ lông nhiều màu sắc sặc sỡ, thân hình mảnh khảnh và thường có lông đuôi trung tâm kéo dài. Tất cả các loài đều sặc sỡ và có mỏ hướng xuống, cánh nhọn, khiến cho chúng có vẻ ngoài giống chim én khi nhìn từ xa.
Họ Sả rừng giống quạ về cả kích thước và hình dáng, nhưng họ này có quan hệ gần gũi với các nhóm chim bói cá và trảu. Chúng có màu sắc bề ngoài khá giống nhau, trong đó màu nâu và xanh lam là chủ yếu. Hai ngón chân trước bên trong của chúng được kết nối, nhưng ngón chân ngoài thì không.
Họ Báo mật là trong số ít các loài chim ăn sáp ong. Chúng được đặt tên theo loài chim báo mật dẫn những người săn mật ong truyền thống đến tổ ong và sau khi các thợ săn đã thu hoạch mật ong, chúng ăn các phần còn lại của tổ ong.
Họ Gõ kiến là những loài chim có kích thước từ nhỏ đến trung bình, mỏ có hình dạng giống với cái đục, chân ngắn, đuôi cứng và lưỡi dài dùng để bắt côn trùng. Một số loài có bàn chân với hai ngón chân hướng về phía trước và hai ngón hướng về phía sau, trong khi một số loài chỉ có ba ngón chân. Nhiều loài chim gõ kiến có thói quen gõ mạnh vào thân cây bằng mỏ của chúng.
Nét đặc trưng của loài thuộc họ này là có mỏ cong khỏe, thế đứng thẳng, chân khỏe, chân có kiểu ngón zygodactyly và có vuốt. Nhiều loài có màu sắc sống động, và một số con có nhiều màu. Về kích thước chúng có chiều dài từ 8 cm (3,1 in) đến 1 m (3,3 ft). Họ này được tìm thấy ở phía đông đến phía nam châu Phi, Đông Nam Á và tại Úc và New Zealand thuộc châu Đại Dương.
Họ này gồm các loài chim mỏ rộng nhỏ, có màu sặc sỡ, thức ăn của chúng là quả cũng như côn trùng. Chúng ăn theo kiểu tương tự như của chim đớp ruồi bằng cách đớp bằng chiếc mỏ rộng của chúng. Môi trường sống của chúng là tầng tán của các khu rừng ẩm ướt.
Họ Mỏ rộng gồm các loài chim mỏ rộng nhỏ, có màu sặc sỡ, thức ăn của chúng là quả cũng như côn trùng. Chúng ăn theo kiểu tương tự như của chim đớp ruồi bằng cách đớp bằng chiếc mỏ rộng của chúng. Môi trường sống của chúng là tầng tán của các khu rừng ẩm ướt.
Họ Đuôi cụt là những loài chim dạng sẻ kích thước trung bình với thân hình chắc nịch, các chân hơi dài nhưng khỏe, mỏ to và đuôi rất ngắn. Nhiều loài (nhưng không phải tất cả) có màu sặc sỡ. Chúng là những loài chim sinh sống nhiều trên mặt đất tại các khu rừng ẩm ướt, với thức ăn là sên, sâu bọ nhỏ và các động vật không xương sống tương tự.
Họ Acanthizidae là những loài chim có kích thước từ nhỏ đến trung bình với đôi cánh ngắn cong tròn, mỏ nhỏ, chân dài và đuôi ngắn. Chích bụng vàng là thành viên duy nhất trong họ được tìm thấy ở lục địa châu Á.
Họ Chim nghệ gồm các loài có hình dáng giống như chào mào sinh sống trong các khu rừng thưa hay các bụi rậm cây có gai, mặc dù nhóm này có xu hướng có bộ lông màu nâu xám, nhưng chúng có dị hình giới tính, với chim trống có bộ lông màu vàng và lục.
Họ Phường chèo là những loài chim thuộc bộ Sẻ có kích thước từ nhỏ đến trung bình. Chúng chủ yếu có màu xám với màu trắng và đen, mặc dù một số loài có màu sắc rực rỡ.
Họ Bách thanh là các loài chim sẻ được biết đến vì hành vi bắt côn trùng, các loài chim hay động vật có vú nhỏ và xiên chúng trên các cành cây có gai. Mỏ bách thanh điển hình có dạng móc câu với mút mỏ trên cong và có một hay hai mấu răng sắc, tương tự như của các loài chim săn mồi khác.
Hầu hết các thành viên của họ này đều sống ở Tân thế giới. Tuy nhiên, các loài thuộc chi Khướu mỏ quặp hay loài Khướu mào bụng trắng được tìm thấy ở Đông Nam Á chỉ hơi giống với các loài thuộc chi Vireo hay chi Hylophilus thật sự.
Họ Chèo bẻo gồm các loài chim đa phần có màu đen hoặc màu xám sẫm, đôi khi có màu kim loại. Chúng có đuôi chẻ dài, và một số loài châu Á có họa tiết đuôi phức tạp. Các loài này có chân ngắn và ngồi thẳng khi đậu, giống bách thanh. Chúng đớp ruồi hay săn mồi trên mặt đất.
Họ Thiên đường gồm các loài chim sẻ ăn côn trùng có kích thước từ nhỏ đến trung bình săn mồi bằng cách săn mồi trên mặt đất, bay liệng hay đớp mồi trên không.
Eupetes macrocerus là loài chim sẻ trông giống như gà nước sinh sống trong tầng rừng nguyên sinh ở Bán đảo Mã Lai và Sumatra. Đây là thành viên duy nhất của họ. Các phân loài theo chỉ định E. m. macrocerus được tìm thấy ở Thái Lan.[8]
Họ Sơn ca gồm các loài chim nhỏ sống trên mặt đất, thường có giọng hót mê hoặc và kiểu bay liệng kì dị. Phần lớn các loài sơn ca có vẻ ngoài kém nổi bật. Chúng ăn sâu bọ và hạt.
Họ Én gồm những loài chim thích nghi với cuộc sống săn tìm mồi trên không. Chúng có thân hình thuôn và thanh mảnh với các cánh dài và nhọn đầu cánh, mỏ ngắn và quai hàm khỏe cùng miệng há rộng. Các chân ngắn và chúng có vai trò phục vụ cho việc đậu cành hơn là để đi, các ngón trước phần nào hợp nhất lại ở phần gốc ngón chân.
Đa phần các loài thuộc họ nhỏ này được tìm thấy ở châu Phi, tuy nhiên vẫn có một vài loài sinh sống tại các vùng nhiệt đới của châu Á. Các loài này không có quan hệ gần với các loài có tên "chích".
Họ Bạc má gồm các loài chim nhỏ nhưng mập mạp, sinh sống ở đồng rừng với mỏ ngắn và to. Một số loài có mào. Chúng là những loài chim dễ thích nghi, với thức ăn hỗn hợp, bao gồm các loại hạt và sâu bọ.
Họ Bạc má đuôi dài là một họ nhỏ gồm các loài chim nhỏ thuộc bộ Sẻ với phần đuôi từ trung bình tới dài khi so sánh với kích thước phần thân. Chúng làm tổ dạng túi kiểu dệt sợi trên các cây thân gỗ. Phần lớn các loài ăn nhiều loại thức ăn, bao gồm nhiều loài sâu bọ.
Họ Trèo cây gồm các loài chim rừng nhỏ. Các loài này có khả năng kỳ lạ là trèo cây với đầu quay xuống phía dưới chứ không giống như các loài như gõ kiến chỉ có thể trèo cây với đầu quay lên phía trên. Các loài trèo cây có đầu to, đuôi ngắn, mỏ và chân khỏe.
Họ Đuôi cứng gồm những loài chim rừng nhỏ, phần thân trên có màu nâu và thân dưới có màu trắng. Chúng có mỏ mỏng, nhọn, cong xuống phía dưới, sử dụng để bắt côn trùng từ vỏ cây. Các loài này có lông đuôi cứng giống như chim gõ kiến, dùng để nâng đỡ chúng leo lên những cây thẳng đứng.
Họ Lội suối là nhóm các loài chim sống trong các môi trường nước ở châu Mỹ, châu Âu và châu Á. Tên gọi "lội suối" hay "hét nước" là từ các chuyển động nhấp nhô bập bềnh hay dìm mình xuống dưới mặt nước của chúng.
Họ Chào mào là một họ gồm các loài chim biết hót, có kích thước trung bình. Một số loài có màu sặc sỡ với huyệt, má, họng, lông mày có màu vàng, đỏ hay da cam, nhưng phần lớn có bộ lông buồn tẻ với màu chủ đạo là đen hay nâu ô liu đồng nhất. Một số loài có mào rất đặc biệt.
Họ Chích bụi gồm các loài chim được tìm thấy trên toàn châu Phi, châu Á và Polynesia. Phân loại của chúng không giống nhau và một vài chính quyền đặt một số chi vào các họ khác nhau.[10]
Họ Chích lá là một họ gồm các loài chim ăn sâu bọ nhỏ sinh sống tại đại lục Á-Âu, từ Wallacea tới châu Phi. Các loài có kích thước khác nhau, thường có bộ lông ánh lục hay lục xám phía trên và ánh vàng hay vàng nâu phía dưới.
Họ Chích gồm các loài có dạng chim chích lớn. Phần lớn có màu nâu lục vàng ở phía trên và phần nhiều có màu từ vàng tới be ở phía dưới. Chúng thường sinh sống ở khu vực đồng rừng thưa, các bụi lau sậy hay cỏ mọc cao. Họ này phân bố chủ yếu từ miền nam tới miền tây châu Á và các khu vực xung quanh, nhưng các loài cũng phân bố xa tới các đảo trên Thái Bình Dương và một vài loài sống ở châu Phi.
Họ Chích đầm lầy là những loài chim biết hót có kích thước nhỏ, ăn côn trùng, được tìm thấy chủ yếu ở đại lục Á-Âu, châu Phi và khu vực Australia. Chúng là những con chim nhỏ có đuôi thường dài và nhọn. Các loài thường có màu nâu xám hoặc màu da bò.
Họ Chiền chiện là loài tựa như chim chích, được tìm thấy tại khu vực nóng ấm thuộc phương nam của Cựu thế giới. Các loài chim trong họ này nói chung là các loại chim nhỏ với bộ lông màu nâu-xám hay xám, được tìm thấy tại các khu vực đồng quê mở như các đồng cỏ hay các bụi cây rậm.
Họ Lâm oanh là một họ chứa các loài chim nhỏ thuộc bộ Sẻ. Họ Sylviidae chủ yếu sinh sống tại khu vực châu Âu, châu Á và ở một phạm vi hẹp hơn tại châu Phi. Phần lớn các loài nói chung có bề ngoài khó phân biệt, nhưng lại có giọng hót đặc trưng.
Họ Vành khuyên gồm những loài chim nhỏ nhìn chung rất khó phân biệt theo bề ngoài, bộ lông ở các phần trên của chúng nói chung hoặc là có màu hơi xỉn như màu ôliu ánh lục, nhưng một số loài có phần lông ở họng, ngực hay các phần dưới màu trắng hay vàng tươi và một vài loài có phần hông màu vàng sẫm như màu da bò. Đúng như tên gọi, xung quanh mắt của nhiều loài có một vành tròn màu trắng dễ thấy.
Họ Chuối tiêu gồm các loài chim biết hót có kích thước nhỏ đến trung bình có bộ lông mềm mịn nhưng màu sắc đa dạng. Các thành viên của chi Illadopsis sống được trong rừng, nhưng một số loài thuộc chi khác sống trong bụi rậm.
Họ Kim oanh gồm các thành viên đa dạng về kích thước và màu sắc, mặc dù những loài thuộc chi Turdoides thường có màu nâu hoặc xám. Họ này có thể được tìm thấy ở châu Phi, Ấn Độ và khu vực Đông Nam Á.
Họ Chim lam gồm các loài chim có hình dáng giống như chào mào sinh sống trong các khu rừng thưa hay các bụi rậm cây có gai. Chim trống có bộ lông màu lam sẫm còn chim mái có bộ lông màu xanh lục xỉn hơn.
Họ Đớp ruồi là một nhóm lớn các loài chim nhỏ ăn sâu bọ sống trên cây. Ngoại hình của những con chim này rất đa dạng, nhưng chúng chủ yếu hót yếu và có tiếng kêu gay gắt.
Họ Hoét là nhóm các loài chim thuộc bộ Sẻ chủ yếu sinh sống tại khu vực thuộc Cựu thế giới. Chúng có vẻ ngoài mập mạp, lông mềm, có kích thước từ nhỏ tới trung bình, ăn sâu bọ nhưng đôi khi ăn tạp, thường kiếm ăn trên mặt đất. Nhiều loài có giọng hót thu hút.
Họ Sáo là gồm các loài chim thuộc bộ Sẻ có kích thước từ nhỏ tới trung bình. Đường bay khỏe và thẳng và thích sống thành bầy. Môi trường sinh sống ưa thích của chúng là vùng nông thôn tương đối thoáng. Chúng ăn sâu bọ và quả. Bộ lông thường sẫm màu với ánh kim.
Họ Hút mật là những loài chim nhỏ thuộc bộ Sẻ có thức ăn là mật hoa, mặc dù chúng cũng ăn cả sâu bọ, đặc biệt là khi nuôi chim non. Chúng bay nhanh và thẳng bằng hai cánh ngắn. Một vài loài hút mật có thể lấy mật hoa trong khi hai cánh vẫn vỗ và lơ lửng như chim ruồi, nhưng thông thường thì chúng đậu để ăn.
Họ Chìa vôi gồm các loài chim nhỏ thuộc bộ Sẻ có đuôi dài đến trung bình bao gồm chìa vôi, chim vuốt dài và chim manh. Các loài chim này có thân hình mảnh khảnh, thức ăn là các loại sâu bọ trên mặt đất ở các vùng nông thôn.
Họ Sẻ thông là những loài chim có kích thước nhỏ đến vừa thuộc bộ Sẻ, có thức ăn là hạt với chiếc mỏ khỏe, thường có hình nón và ở một số loài mỏ rất lớn. Tất cả các loài đều có 12 lông đuôi và 9 lông bay chính. Họ này bay khỏe, xen kẽ giữa những cú vỗ và những pha lướt trên đôi cánh kín. Hầu hết các loài đều hót hay.
Họ Sẻ gồm những loài chim thuộc bộ Sẻ, thường nhỏ, mập mạp, có màu nâu hoặc xám với đuôi ngắn và mỏ ngắn nhưng mạnh. Các loài này ăn hạt cũng như côn trùng nhỏ.
Họ Rồng rộc gồm những loài chim nhỏ thuộc họ Sẻ có họ hàng với họ Sẻ thông. Chúng là loài chim ăn hạt giống với mỏ hình nón tròn. Con trống của nhiều loài có màu sắc rực rỡ, thường có màu đỏ hoặc vàng và đen, nhưng một số loài chỉ thể hiện sự thay đổi màu sắc trong mùa sinh sản.
Họ Chim di gồm những loài chim nhỏ thuộc bộ Sẻ sống trong vùng nhiệt đới của Cựu Thế giới và Australasia. Chúng sống thành bầy và thường ăn hạt theo bầy bằng chiếc mỏ ngắn nhưng dài và nhọn. Chúng đều giống nhau về cấu tạo cơ thể và thói quen, nhưng có sự khác biệt lớn về màu sắc và hoa văn của bộ lông.
^Clements, J. F., T. S. Schulenberg, M. J. Iliff, D. Roberson, T. A. Fredericks, B. L. Sullivan, and C. L. Wood. 2018. The eBird/Clements checklist of birds of the world: v2018. Downloaded from http://www.birds.cornell.edu/clementschecklist/download/ Truy cập Ngày 20 tháng 8 năm 2018
^ abcRobson, Craig (2004). A Field Guide to the Birds of Thailand. New Holland. ISBN1-84330-921-1.
^Humphrey, Stephen R.; Bain, James R. (1990). Endangered Animals of Thailand. CRC Press. tr. 228–9. ISBN1-877743-07-0.
^Gill, F. and D. Donsker (Eds). 2017. IOC World Bird List (v 7.3). Doi 10.14344/IOC.ML.7.3. http://www.worldbirdnames.org/ Truy cập Ngày 20 tháng 8 năm 2019
^Round, Philip D.; Hansson, Bengt; Pearson, David J; Kennerley, Peter R.; Bensch, Staffan (2007). “Lost and found: the enigmatic large-billed reed warbler Acrocephalus orinus rediscovered after 139 years”. Journal of Avian Biology (Abstract). 38 (2): 133. doi:10.1111/j.2007.0908-8857.04064x.