Cò bợ có chiều dài trung bình 47 cm, thường với bộ lông nền trắng, lưng màu nâu, mỏ vàng với đầu mỏ đen; chân và mắt cò màu vàng. Lông cò chuyển sang màu đỏ, xanh và trắng vào mùa sinh sản. Vào thời gian còn lại lông cò màu nâu xám pha đốm trắng.[2]
Cò bợ sống ở đầm lầy nước lợ tương đối nông cạn ở vùng ôn đới và bán nhiệt đớiĐông Á. Chúng thích vùng đồng bằng với bản địa trải dài từ duyên hải đến vùng núi phía tây.[2]
Cò bợ không hẳn là loài chim thiên di nhưng cũng di chuyển ít nhiều theo mùa. Có trường hợp một con cò sinh sống ở Myanmar vào Tháng Tư, 1995 mà đến Tháng Tám, 1997 lại xuất hiện ở Alaska.[3]
Thức ăn chính của cò bợ là côn trùng, cá và các loài giáp xác. Khi làm tổ, cò bợ sẽ làm xen kẽ với các loài cò khác. Cò đẻ trứng màu xanh lam pha màu lục. Mỗi lứa từ ba đến sáu quả trứng.[2]
Là loài khá phổ biến, cò bợ không phải là loài bị đe dọa theo theo nhận định của IUCN.[4]
American Ornithologists' Union (AOU) (2000): Forty-second supplement to the American Ornithologists' Union Check-list of North American Birds. Auk117(3): 847–858.DOI: 10.1642/0004-8038(2000)117[0847:FSSTTA]2.0.CO;2 PDF fulltext
Robson, Craig R. (2002): A guide to the birds of Southeast Asia: Thailand, Peninsular Malaysia, Singapore, Myanmar, Laos, Vietnam, Cambodia. New Holland, London.ISBN 1-85368-313-2
Robson, Craig R.; Buck, H.; Farrow, D.S.; Fisher, T. & King, B.F. (1998): A birdwatching visit to the Chin Hills, West Burma (Myanmar), with notes from nearby areas. Forktail13: 109-120. PDF fulltextLưu trữ 2008-10-11 tại Wayback Machine
Bài viết liên quan đến chim này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.