USS Sea Dog (SS-401/AGSS-401) là một tàu ngầm lớp Balao được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên bộ Cá nhám góc.[1] Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II, thực hiện được năm chuyến tuần tra, đánh chìm chín tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 21.469 tấn.[8] Sau khi xung đột chấm dứt nó được xếp lại lớp như một "tàu ngầm phụ trợ" AGSS-401 và tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến năm 1968. Con tàu cuối cùng bị đánh chìm như mục tiêu vào năm 1973. Sea Dog được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên tàu ngầm lớp Gato dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận.[9] Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến 400 ft (120 m).[6][10] Con tàu dài 311 ft 9 in (95,02 m) và có trọng lượng choán nước 1.526 tấn Anh (1.550 t) khi nổi và 2.424 tấn Anh (2.463 t) khi lặn.[3] Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện,[3][4] đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) khi nổi và 2.740 shp (2.040 kW) khi lặn,[3] cho phép đạt tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) và 8,75 hải lý trên giờ (16,21 km/h) tương ứng.[5] Tầm xa hoạt động là 11.000 hải lý (20.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.[5]
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy.50 caliber.[5] Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển.[6] Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.[11][12]
Lên đường vào ngày 13 tháng 9 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, Sea Dog được tiếp thêm nhiên liệu tại căn cứ Midway vào ngày 17 tháng 9, và đi đến khu vực tuần tra tại quần đảo Ryūkyū vào ngày 28 tháng 9. Nó tuần tra khắp khu vực chung quanh Okinawa trong hơn mười ngày nhưng không bắt gặp mục tiêu nào đáng kể, chỉ bắn cháy một tàu đánh cá bằng hải pháo vào ngày 10 tháng 10. Nó hướng sang quần đảo Amami vào ngày hôm sau, rồi một tuần sau đó lại hướng lên phía Bắc đến quần đảo Tokara. Vào ngày 22 tháng 10, tại vị trí giữa các đảo Suwanosejima và Nakanoshima, nó phát hiện một đoàn tàu vận tải đang di chuyển zig-zag.[1]
Cơ động lên phía trước hàng tàu buôn đối phương bên mạn trái, đến 07 giờ 26 phút, Sea Dog phóng một loạt ngư lôi nhắm vào hai mục tiêu chồng lấp nhau, ghi nhận được ba quả trúng đích. Chiếc pháo hạm cũ Tomitsu Maru (2.933 tấn) cùng chiếc tàu tiếp thanMuroto (4.500 tấn) cùng bị đánh chìm lúc 07 giờ 48 phút trong biển Hoa Đông về phía Nam đảo Suwanosejima, tại tọa độ 29°18′B129°44′Đ / 29,3°B 129,733°Đ / 29.300; 129.733.[15][16][17] Tàu hộ tống và máy bay tuần tra đối phương phản công quyết liệt, với 109 quả mìn sâu được thả xuống chỉ trong vòng hai giờ, nhưng chiếc tàu ngầm thoát được mà không bị hư hại.[1]
Sea Dog tiếp tục tuần tra tại quần đảo Tokara thêm hai ngày trước khi quay trở lại khu vực quần đảo Amami. Vào ngày 28 tháng 10, nó phát hiện và tấn công một đội hình gồm hai thiết giáp hạm và một tàu khu trục nhưng bất thành, rồi sang ngày hôm sau rời khu vực tuần tra. Nó càn quét trên tuyến đường hàng hải gần quần đảo Bonin trong ngày 30 tháng 10 trước khi về đến Midway vào ngày 5 tháng 11.[1]
Trong đêm 5 tháng 1, 1945, Sea Dog cùng Sea Robin bắt gặp một đoàn tàu vận tải nhỏ, rồi đến 01 giờ 00 ngày 6 tháng 1 đã cùng phối hợp tấn công. Sea Robin bắn trúng hai quả ngư lôi vào chiếc tàu buôn dẫn đầu; Sea Dog tấn công một tàu hộ tống ở cuối đoàn tàu, nhưng mục tiêu cơ động né tránh và phản công bằng hải pháo, bốn quả ngư lôi trượt khỏi mục tiêu. Chiếc tàu ngầm càn quét eo biển Luzon trong ngày 18 tháng 1 nhưng không tìm thấy mục tiêu; nó rời khu vực và về đến Guam vào ngày 25 tháng 1. Nó tiếp tục đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 5 tháng 2 để đại tu động cơ, bổ sung một pháo phòng không Bofors 40 mm cùng một dàn radar ST.[1]
1945
Chuyến tuần tra thứ ba
Trong chuyến tuần tra thứ ba từ ngày 11 tháng 3 đến ngày 23 tháng 4 tại vùng biển ngoài khơi chính quốc Nhật Bản, Sea Dog dành gần trọn một tháng đầu tiên cho nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu hỗ trợ các phi vụ không kích từ tàu sân bay, hoạt động tại các khu vực quần đảo Nanpō, dọc bờ biển Kyūshū, quần đảo Osumi và vịnh Sagami. Lúc 19 giờ 03 phút ngày 29 tháng 3, nó phát hiện một tàu ngầmlớp I-400 vừa trồi lên mặt nước; nó phóng ngư lôi tấn công nhưng đã không theo kịp tốc độ đối phương. Năm ngày, nó lại bắt gặp một tàu rải mìn nhỏ nhưng các quả ngư lôi phóng ra đều bị trượt. Đến ngày 16 tháng 4, nó phát hiện và phóng ngư lôi đánh chìm tàu chở hàng Toko Maru (6.850 tấn) ở vị trí giữa Hachijo Jima và Mikura-jima tại tọa độ 33°24′B139°31′Đ / 33,4°B 139,517°Đ / 33.400; 139.517.[15][18] Thời tiết bão tố không thuận lợi cho cả hoạt động tìm kiếm hay càn quét tàu bè, nên chiếc tàu ngầm kết thúc chuyến tuần tra tại Guam.[1]
Tiếp tục tuần tra về phía Nam, vào lúc 06 giờ 35 phút ngày 12 tháng 6, Sea Dog phát hiện một đoàn tàu vận tải nhỏ đang di chuyển cặp sát bờ. Nó phóng ngư lôi tấn công con tàu ở cách xa bờ nhất, đánh chìm tàu chở hàng Shinsen Maru (880 tấn) trong vòng hai phút tại tọa độ 40°09′B139°43′Đ / 40,15°B 139,717°Đ / 40.150; 139.717.[15][19] Đến 05 giờ 10 phút ngày 15 tháng 6, nó phát hiện một mục tiêu đang băng qua bán đảo Oga, nên đến 05 giờ 22 phút, nó phóng một quả ngư lôi tấn công trúng đích phía giữa tàu. Tàu chở hành khách-hàng hóa Koan Maru (884 tấn) bị đắm chỉ trong vòng bốn phút tại tọa độ 39°53′B139°40′Đ / 39,883°B 139,667°Đ / 39.883; 139.667.[15][19] Vào ngày 17 tháng 6, chiếc tàu ngầm hoán đổi vị trí cùng Spadefish và Crevalle, rồi hướng lên phía Bắc để tuần tra dọc bờ biển đảo Hokkaidō. Hai ngày sau đó, nó phát hiện ba tàu buôn đang di chuyển dọc bờ biển lên hướng Bắc. Nó phóng ngư lôi tấn công hai tàu buôn đi trước, đánh chìm được tàu chở hàng Kokai Maru (1.272 tấn) tại tọa độ 43°13′B140°19′Đ / 43,217°B 140,317°Đ / 43.217; 140.317;[15][19] nhưng một máy bay tuần tra đối phương xuất hiện khiến nó không thể tiếp tục tấn công những mục tiêu còn lại. Khi lặn xuống ẩn nấp, chiếc tàu ngầm bị mắc cạn tại độ sâu 116 ft (35 m), khiến nó phải lui ra hướng biển ở vùng nước sâu; máy bay đối phương đã không tìm thấy nó. Sea Dog tiếp tục ở lại khu vực tuần tra thêm nhiều ngày trước khi về đến Midway vào ngày 30 tháng 6, và đến Trân Châu Cảng vào ngày 5 tháng 7.[1]
Sau khi hoạt động từ căn cứ Subic, Sea Dog lên đường vào ngày 12 tháng 1, 1946 để quay trở về Hoa Kỳ, đi đến San Francisco, California vào ngày 2 tháng 2. Nó được đại tu tại Xưởng hải quân Mare Island, rồi sang tháng 6 đã lên đường đi Trân Châu Cảng chuẩn bị cho lượt hoạt động tiếp theo tại Viễn Đông. Con tàu tiến hành chuyến tuần tra chiến tranh mô phỏng trong chuyến đi sang Philippines vào tháng 7, rồi trong tháng 8 và đầu tháng 9 đã phục vụ huấn luyện chống tàu ngầm cho các đơn vị thuộc Đệ Thất hạm đội tại Thanh Đảo, Trung Quốc trước khi quay trở về Trân Châu Cảng.[1]
Trong năm 1947, Sea Dog tiếp tục hoạt động tại vùng biển Đông Thái Bình Dương, thực hành huấn luyện tại khu vực Hawaii, dọc bờ biển Washington, British Columbia và California. Nó lại được phái sang khu vực Tây Thái Bình Dương vào giữa tháng 1, 1948, viếng thăm Australia trước khi gia nhập Đội đặc nhiệm 71.2, đơn vị huấn luyện chống ngầm của Đệ Thất hạm đội tại Thanh Đảo. Vào ngày 2 tháng 3, nó bị hư hại nhẹ sau tai nạn va chạm với tàu khu trụcFurse (DD-882); và sau khi được sửa chữa, nó lên đường quay trở về Hawaii. Nó lên đường hai tháng sau đó hướng đến vùng biển Bering, nơi nó thu thập thông tin thủy văn và đại dương, và khi quay trở về Trân Châu Cảng, nó tiếp nối các hoạt động thường lệ cũng như tham gia huấn luyện cùng Không đoàn Hạm đội 4 dọc bờ biển Washington. Sau một lượt hoạt động khác tại khu vực Tây Thái Bình Dương từ tháng 1 đến tháng 6, 1950, chiếc tàu ngầm được điều động sang phục vụ cùng Hạm đội Đại Tây Dương.[1]
Sea Dog được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][13] Nó được ghi công đã đánh chìm chín tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 21.469 tấn.[8]
Alden, John D., Commander (U.S. Navy Ret) (1979). The Fleet Submarine in the U.S. Navy: A Design and Construction History. Naval Institute Press. ISBN0-85368-203-8.
Bauer, K. Jack; Roberts, Stephen S. (1991). Register of Ships of the U.S. Navy, 1775–1990: Major Combatants. Westport, Connecticut: Greenwood Press. ISBN0-313-26202-0.
Blair, Clay Jr. (2001). Silent Victory: The U.S. Submarine War Against Japan. Naval Institute Press. ISBN1-55750-217-X.
Dewan Keamanan Nasional (Arab Saudi)Informasi lembagaDibentuk2005Dibubarkan29 Januari 2015Pejabat eksekutifRaja Abdullah bin Abdulaziz Al Saud, PresidenPangeran Bandar bin Sultan, Sekretaris Jenderal Arab Saudi Artikel ini adalah bagian dari seri Politik dan KetatanegaraanKerajaan Arab Saudi Hukum Dasar Monarki Raja dan Penjaga Dua Kota Suci Salman Putra Mahkota Muhammad bin Salman Wakil Putra Mahkota Kosong Dewan Kesetiaan Garis suksesi Pemerintah Perdana Menteri Salman Dewan Menteri Majelis...
Artikel ini membutuhkan rujukan tambahan agar kualitasnya dapat dipastikan. Mohon bantu kami mengembangkan artikel ini dengan cara menambahkan rujukan ke sumber tepercaya. Pernyataan tak bersumber bisa saja dipertentangkan dan dihapus.Cari sumber: Negara kesatuan – berita · surat kabar · buku · cendekiawan · JSTOR (Desember 2023) Gaya penulisan artikel atau bagian ini mengandung kata bersayap yang mengandung opini.Silakan lihat halaman pembicaraan. Lih...
Cet article est une ébauche concernant la médecine. Vous pouvez partager vos connaissances en l’améliorant (comment ?) selon les recommandations des projets correspondants. PhysiopathologieLe physiopathologiste ukrainien Vadym Berezovsky.Partie de Physiologie, pathologiePratiqué par Pathophysiologiste (d)modifier - modifier le code - modifier Wikidata La physiopathologie est une discipline de la biologie qui traite des dérèglements de la physiologie, c’est-à-dire les dérègl...
Egyptian-born Australian Muslim scholar MuftiIbrahim Abu MohamedBornIbrahimBinufar, Gharbia Governorate, EgyptNationalityAustralianOther namesMufti Ibrahim Abu MohamedCitizenshipAustralianOccupationGrand MuftiEraContemporaryStyleGrand MuftiTitleGrand Mufti of AustraliaGrand Mufti of AustraliaPreceded byFehmi NajiSucceeded byAbdel Aziem Al-Afifi TitleMuftiSenior postingPeriod in office2011–20182018–present Part of a series onIslam in Australia History Early history Makassan Trade...
Genus of birds Capercaillie redirects here. For other uses, see Capercaillie (disambiguation). TetraoTemporal range: Early Pliocene to recent Western capercaillie (Tetrao urogallus) Scientific classification Domain: Eukaryota Kingdom: Animalia Phylum: Chordata Class: Aves Order: Galliformes Family: Phasianidae Tribe: Tetraonini Genus: TetraoLinnaeus, 1758 Type species Tetrao urogallusLinnaeus, 1758 Species Tetrao urogalloides Tetrao urogallus Tetrao is a genus of birds in the grouse subfamily...
Statistical machine learning algorithm for metric learning Large margin nearest neighbor (LMNN)[1] classification is a statistical machine learning algorithm for metric learning. It learns a pseudometric designed for k-nearest neighbor classification. The algorithm is based on semidefinite programming, a sub-class of convex optimization. The goal of supervised learning (more specifically classification) is to learn a decision rule that can categorize data instances into pre-defined cl...
Passaic Agricultural Chemical Works di Newark, New Jersey, 1876 Bahan kimia pertanian adalah istilah generik untuk berbagai produk kimia yang digunakan di pertanian. Dalam kebanyakan kasus, bahan kimia pertanian mengacu pada kisaran luas pestisida, termasuk insektisida, herbisida, fungisida dan nematisida. Ini juga termasuk pupuk sintetis, hormon dan zat kimia agen pertumbuhan lainnya, dan konsentrasi penyimpanan bahan baku pupuk kandang.[1][2][3] Dalam Kamus Bahasa In...
Air Test and Evaluation Squadron 1Active1943 - PresentCountryUnited StatesBranchUnited States NavyTypeSpecial flight test aircraft squadronGarrison/HQNAS Patuxent RiverNickname(s)PioneersMotto(s)Does it FirstMilitary unit VX-1, Air Test and Evaluation Squadron One, (AIRTEVRON ONE) is a United States Navy air test and evaluation squadron based at Naval Air Station Patuxent River, Maryland. Operations Operational aircraft are assigned to VX-1 including the P-8A Poseidon, E-2D Advanced Hawkeye,...
У этого термина существуют и другие значения, см. Третье отделение (значения). Третье отделениерус. дореф. Третье отдѣленіе Страна Российская империя Создана 1826 Распущена (преобразована) 1880 Предшественник Тайная канцелярия Преемник Охранное отделение Здание штаба От...
دقيقةمعلومات عامةالنوع وحدة زمن — وحدات يمكن استخدامها مع النظام الدولي للوحدات — وحدة مشتقة من UCUM لديه جزء ثانية جزء من ساعة تستخدم لقياس المدة الزمنية[1] رمز الوحدة القائمة ... min (بالإنجليزية)[1][2][3] דק' (بالعبرية) perc (بالمجرية) мин (بالروسية) хв. (بالأوكرا...
Williams CollegeBerkas:Williams College Seal.svgMotoE liberalitate E. Williams, armigeri (Latin)Moto dalam bahasa InggrisThrough the Generosity of E. Williams, Esquire[1]JenisKolese seni rupa liberal swastaDidirikan1793Dana abadi$2.256 miliar (2016)[2]PresidenAdam FalkStaf akademik334 (Fall 2015)Sarjana2,191 (Musim Gugur 2016)Magister54 (Musim Gugur 2015)LokasiWilliamstown, Massachusetts, ASKampusPedesaanWarnaUngu dan emas[3] AtletikNCAA Division ...
Senjata nuklir Sejarah senjata nuklir Perang nuklir Perlombaan nuklir Disain senjata / uji coba Ledakan nuklir Sistem pengiriman Espionase nuklir Proliferasi Negara Negara dengan senjata nuklir AS · Rusia · Britania Raya · Prancis Tiongkok · India · Pakistan Israel · Korea Utara Daya ledak sebuah senjata nuklir (dalam bahasa Inggris diistilahkan dengan yield) adalah jumlah energi yang dilepaskan ketika sebuah senjata nuklir diledakkan yang dirumuskan setara dengan massa trinitrotoluene...
How large a sphere or circle appears This article needs additional citations for verification. Please help improve this article by adding citations to reliable sources. Unsourced material may be challenged and removed.Find sources: Angular diameter – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (September 2009) (Learn how and when to remove this message) Angular diameter: the angle subtended by an object The angular diameter, angular size, apparent diam...
Empirical study A natural experiment is a study in which individuals (or clusters of individuals) are exposed to the experimental and control conditions that are determined by nature or by other factors outside the control of the investigators. The process governing the exposures arguably resembles random assignment. Thus, natural experiments are observational studies and are not controlled in the traditional sense of a randomized experiment (an intervention study). Natural experiments are mo...