USS Trepang (SS-412/AGSS-412) là một tàu ngầm lớp Balao được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên tiếng Indonesia của loài sên biển hay hải sâm.[1] Nó đã phục vụ trong giai đoạn sau của Thế Chiến II, thực hiện được năm chuyến tuần tra và đánh chìm 11 tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 23.850 tấn.[8] Được cho ngừng hoạt động sau khi xung đột chấm dứt vào năm 1946, nó không bao giờ hoạt động trở lại, và cuối cùng bị đánh chìm như một mục tiêu ngoài khơi California vào năm 1969. Trepang được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Hải quân cùng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên tàu ngầm lớp Gato dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận.[9] Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến 400 ft (120 m).[6][10] Con tàu dài 311 ft 9 in (95,02 m) và có trọng lượng choán nước 1.526 tấn Anh (1.550 t) khi nổi và 2.424 tấn Anh (2.463 t) khi lặn.[3] Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện,[3][4] đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) khi nổi và 2.740 shp (2.040 kW) khi lặn,[3] cho phép đạt tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) và 8,75 hải lý trên giờ (16,21 km/h) tương ứng.[5] Tầm xa hoạt động là 11.000 hải lý (20.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.[5]
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy.50 caliber.[5] Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển.[6] Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.[11][12]
Khởi hành từ Trân Châu Cảng vào ngày 13 tháng 9 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, Trepang hoạt động tại khu vực phía Nam đảo Honshū. Trong đêm 30 tháng 9, nó phát hiện một đoàn tàu vận tải đang rời vịnh Tokyo, bao gồm hai tàu chở dầu lớn, một tàu buôn nhỏ và một tàu hộ tống. Đến 03 giờ 28 phút sáng hôm sau, nó phóng một loạt ngư lôi vào các mục tiêu chồng lấp, đánh chìm tàu chở hảng Takunan Maru (750 tấn) ngoài khơi bờ biển Nhật Bản, cách 108 nmi (200 km) về phía Tây quần đảo Ogasawara, tại tọa độ 30°30′B138°27′Đ / 30,5°B 138,45°Đ / 30.500; 138.450, một thủy thủ đã tử trận cùng con tàu.[15][16][17] Sang ngày 10 tháng 10, nó tấn công đoàn tàu vận tải thứ hai bao gồm hai tàu chở dầu và một tàu hộ tống. Cho dù nó tự nhận đã đánh trúng mục tiêu, tàu liệu thu được từ phía Nhật Bản sau chiến tranh không thể xác nhận điều này. Sang ngày hôm sau, một loạt bốn quả ngư lôi phóng ra đã phá hủy Tàu vận tải số 105 (1.000 tấn) ở phía Nam Yokosuka, tại tọa độ 33°18′B137°42′Đ / 33,3°B 137,7°Đ / 33.300; 137.700.[15][16][1]
Đang khi di chuyển tại vị trí khoảng 12 mi (19 km) về phía Tây Nam lối ra vào vịnh Tokyo vào ngày 12 tháng 10, radar của Trepang dò được mục tiêu bao gồm hai thiết giáp hạm và hai tàu khu trục. Bất chấp khả năng bị phát hiện do sóng tạo ra khi di chuyển nhanh, nó tiếp cận mục tiêu hết tốc độ và phóng toàn bộ sáu quả ngư lôi trước mũi, rồi xoay mũi để phóng nốt bốn quả ngư lôi phía đuôi tàu. Trung tá Hạm trưởng Davenport cho rằng ông đã gây hư hại cho một thiết giáp hạm lớp Fusō và đánh chìm một tàu khu trục, nhưng thực ra Trepang chỉ gây hư hại cho tàu khu trục Fuyutsuki ngoài khơi Omaesuki, tại tọa độ 33°56′B138°09′Đ / 33,933°B 138,15°Đ / 33.933; 138.150.[14][18] Tiêu phí hết số ngư lôi mang theo, chiếc tàu ngầm kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về căn cứ tại đảo Majuro thuộc quần đảo Marshall vào ngày 23 tháng 10, nơi nó được sửa chữa cặp bên mạn tàu tiếp liệu tàu ngầmBushnell (AS-15).[1]
Chuyến tuần tra thứ hai
Khởi hành từ Majuro vào ngày 16 tháng 11 cho chuyến tuần tra thứ hai tại khu vực Philippines, Trepang hoạt động trong thành phần một đội tấn công phối hợp vốn bao gồm các tàu ngầm Segundo (SS-398) và Razorback (SS-394). "Bầy sói" mang biệt danh "ROY'S RANGERS" được đặt dưới quyền chỉ huy chung của Trung tá Davenport, Hạm trưởng Trepang. Đang khi tuần tra ngoài khơi đảo Luzon vào ngày 6 tháng 12, Trepang phát hiện mục tiêu tiếp cận từ hướng Bắc, bao gồm bảy tàu lớn và ba tàu hộ tống đang chậm chạp tiếp cận Philippines. Nó thông báo cho các đồng đội trong "Bầy sói" vị trí của mục tiêu rồi lặn xuống tấn công.[1]
Lúc 21 giờ 47 phút, tàu vận tải Jinyo Maru (6.862 tấn) trúng ngư lôi và đắm trong biển Đông về phía Bắc vịnh Bagui, Luzon, tại tọa độ 18°30′B121°57′Đ / 18,5°B 121,95°Đ / 18.500; 121.950;[15][14][19] 1.383 binh lính cùng 44 thành viên thủy thủ đoàn đã thiệt mạng cùng con tàu. Cùng khoảng thời gian này tàu chở hàng Banshu Maru số 31 (748 tấn) cũng trúng ngư lôi và đắm tại tọa độ 18°54′B120°49′Đ / 18,9°B 120,817°Đ / 18.900; 120.817;[15][14][19] toàn bộ 23 thành viên thủy thủ đoàn đã thiệt mạng cùng con tàu. Đến 23 giờ 58 phút, tàu vận tải Fukuyo Maru (5.463 tấn) bị đánh trúng ba quả ngư lôi, nổ tung và đắm trong biển Đông về phía Bắc vịnh Bagui, Luzon, tại tọa độ 18°59′B121°05′Đ / 18,983°B 121,083°Đ / 18.983; 121.083;[15][14][19] 913 binh lính trên tàu cùng 66 pháo thủ và 94 thủy thủ đã tử trận. Trepang cũng đã gây hư hại cho tàu chở hàng Yamakuni Maru (500 tấn).[14][1]
Segundo và Razorback đến nơi và nỗ lực tấn công các tàu buôn còn lại, đánh chìm thêm hai chiếc dưới sự trợ giúp của một máy bay hải quân. Trepang vào lúc này đã tiêu phí hết số ngư lôi mang theo, nên rút lui về Trân Châu Cảng và kết thúc chuyến tuần tra trước ngày lễ Giáng Sinh. Sau chuyến tuần tra này, Trung tá Davenport, một trong những sĩ quan tàu ngầm được tặng thưởng nhiều nhất trong chiến tranh với năm Huân chương Chữ thập Hải quân, được điều động về làm giảng viên tại Học viện Hải quân Hoa Kỳ.[1]
1945
Chuyến tuần tra thứ ba
Dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng mới, Trung tá Hải quân Allen R. Faust, Trepang khởi hành vào ngày 25 tháng 1, 1945[14] cho chuyến tuần tra thứ ba ngoài khơi đảo Honshū. Nó hoạt động trong thành phần "Bầy sói" mang biệt danh "Mac's Mops", bao gồm các tàu ngầm Piper (SS-409), Pomfret (SS-391), Bowfin (SS-287) và Sterlet (SS-392). Lực lượng làm nhiệm vụ càn quét tàu tuần tra đối phương quanh khu vực quần đảo Nanpō, dọn đường cho chiến dịch không kích của các tàu sân bay thuộc Đệ Ngũ hạm đội xuống các đảo chính quốc Nhật Bản, chuẩn bị cho cuộc đổ bộ lên Iwo Jima. Trepang không bắt gặp mục tiêu nào có giá trị, nên chuyển sang nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu phục vụ cho chiến dịch không kích xuống khu vực Tokyo.[1]
Trong giai đoạn đầu của chuyến tuần tra cuối cùng trong chiến tranh, Trepang làm nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu tại vị trí về phía Đông Nam vịnh Tokyo. Vào ngày 22 tháng 6, tại vị trí cách 20 nmi (37 km) về phía Đông Nam hải đăng Daiozaki thuộc Ise-shima, Mie, một tốp bảy máy bay ném bom B-29 Superfortress đã phóng bỏ bom xuống biển. Một quả rơi cách mạn trái mũi tàu 1.000 thước Anh (910 m) và hai quả cách mạn trái đuôi tàu 2.000 thước Anh (1.800 m); chiếc tàu ngầm không bị hư hại trong sự cố này.[29] Đến 12 giờ 00 ngày 24 tháng 6, nó lần lượt cứu vớt hai phi công máy bay tiêm kíchP-51 Mustang gặp trục trặc khi hộ tống máy bay B-29 Superfortress ném bom xuống Tokyo, và phải nhảy dù xuống biển.[30]<[1]
Ba ngày sau đó, nó đưa hai viên phi công cứu vớt được sang tàu ngầm Tigrone (SS-419), đang có 30 thành viên các đội bay khác trên tàu, để được chuyển về hậu cứ. Ngay sau đó nó lại cùng tàu chị em Springer (SS-414) đi hết tốc độ đến giải cứu cho đội bay một chiếc B-29 Superfortress, bị bắn rơi một ngày trước đó, và đang trôi nổi trên bè cứu sinh cách cảng Nagoya 7 nmi (13 km). Họ tìm thấy tám người thuộc bốn nhóm phân tán trên một khoảng rộng 4 nmi (7,4 km). Trepang đã cứu vớt bảy người còn Springer vớt người còn lại; tuy nhiên bốn người khác thuộc đội bay đã mất tích.[30][1]
Trong khi đi đến điểm gặp gỡ tàu ngầm Devilfish (SS-292) vào ngày 30 tháng 6 để chuyển giao các thành viên đội bay được giải cứu, Trepang bắt gặp một tàu vận tải nhỏ 600 tấn đang chở quân, và đánh chìm mục tiêu bằng hải pháo. Khoảng mười binh lính Nhật sống sót trôi nổi trên biển đã từ chối được giải cứu.[30] Nó tiếp tục tuần tra ngoài khơi Honshū, nhưng không bắt gặp mục tiêu nào cho đến ngày 7 tháng 7, khi phát hiện một đoàn ba tàu vận tải, và đã phóng ngư lôi đánh chìm chiếc dẫn đầu Koun Maru số 2 (606 tấn) tại tọa độ 42°21′B141°28′Đ / 42,35°B 141,467°Đ / 42.350; 141.467.[15][14][31] Đang khi rút lui ra vùng biển nước sâu, chiếc tàu ngầm bất ngờ bị một máy bay tuần tra đối phương thả hai quả mìn sâu tấn công, nhưng nó thoát được mà không bị hư hại. Sau khi tiếp tục nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu, nó kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Trân Châu Cảng, và vẫn ở lại căn cứ này khi Nhật Bảnchấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột.[1]
^ abRohwer, Jürgen; Hümmelchen, Gerhard (19 tháng 2 năm 2023). “Seekrieg 1944, Oktober”. Württembergische Landesbibliothek Stuttgart (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2024.
^Rohwer, Jürgen; Hümmelchen, Gerhard (1 tháng 7 năm 2018). “Seekrieg 1945, Februar”. Württembergische Landesbibliothek Stuttgart (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2024.
Alden, John D., Commander (U.S. Navy Ret) (1979). The Fleet Submarine in the U.S. Navy: A Design and Construction History. Naval Institute Press. ISBN0-85368-203-8.
Bauer, K. Jack; Roberts, Stephen S. (1991). Register of Ships of the U.S. Navy, 1775–1990: Major Combatants. Westport, Connecticut: Greenwood Press. ISBN0-313-26202-0.
Blair, Clay Jr. (2001). Silent Victory: The U.S. Submarine War Against Japan. Naval Institute Press. ISBN1-55750-217-X.
D'Ewes Coke gunakan kursor untuk eksplorasi gambar D'Ewes Coke dan istrinya, Hannah, di belakang sepupunya Daniel Coke dilukis oleh Joseph WrightLahir1747[1]Mansfield WoodhouseMeninggal12 April 1811BathPendidikanSekolah Repton dan St John's College, Cambridge[1]PekerjaanKlerus dan pengacaraSuami/istriHannah HeywoodAnaktiga anak laki-laki, D'Ewes, William dan JohnOrang tuaGeorge Coke dan Elizabeth, anak perempuan Rev. Seth Ellis Yang terhormat pendeta D'Ewes Coke (1747 - 12 Ap...
Artikel ini perlu diterjemahkan dari bahasa Inggris ke bahasa Indonesia. Artikel ini ditulis atau diterjemahkan secara buruk dari Wikipedia bahasa Inggris. Jika halaman ini ditujukan untuk komunitas bahasa Inggris, halaman itu harus dikontribusikan ke Wikipedia bahasa Inggris. Lihat daftar bahasa Wikipedia. Artikel yang tidak diterjemahkan dapat dihapus secara cepat sesuai kriteria A2. Jika Anda ingin memeriksa artikel ini, Anda boleh menggunakan mesin penerjemah. Namun ingat, mohon tidak men...
A 17th-century portrait of Chen Yuanyuan The Eight Beauties of Qinhuai (Chinese: 秦淮八艳; pinyin: Qínhuái Bāyàn), also called the Eight Beauties of Jinling (Chinese: 金陵八艳), were eight famous Yiji or Geji during the Ming-Qing transition period who resided along the Qinhuai River in Nankin (now Nanjing, Jiangsu Province, China). As well as possessing great beauty, they were all skilled in literature, poetry, fine arts, dancing and music.[1] The name originat...
Fin on the dorsal of fish and cetaceans Dorsal fin of a shark A dorsal fin is a fin located on the back of most marine and freshwater vertebrates within various taxa of the animal kingdom. Many species of animals possessing dorsal fins are not particularly closely related to each other, though through convergent evolution they have independently evolved external superficial fish-like body plans adapted to their marine environments, including most numerously fish, but also mammals such as ceta...
Mount PleasantA view down the hill from behind the rugby postsLocationBatley, West YorkshireCoordinates53°42′26″N 1°37′54″W / 53.70722°N 1.63167°W / 53.70722; -1.63167Capacity7,500Record attendance23,989(Batley vs. Leeds, 14 March 1925[1])SurfaceGrassScoreboardElectronicOpened1880TenantsBatley Bulldogs (1880–present)Hunslet (1980–1982)Dewsbury Rams (1991)Batley ARLFC (2023-) Mount Pleasant Stadium, officially known for sponsorship purposes as F...
American journalist Not to be confused with Isaac Hayes. Isaac HaysIsaac Hays c. 1850BornJuly 5, 1796DiedApril 12, 1879(1879-04-12) (aged 82)NationalityAmericanOccupation(s)Ophthalmologist, EditorSignature Isaac Hays (July 5, 1796 – April 12, 1879) was an American ophthalmologist, medical ethicist, and naturalist. A founding member of the American Medical Association, and the first president of the Philadelphia Ophthalmological Society, Hays published the first study of non-congential ...
此條目需要补充更多来源。 (2021年7月4日)请协助補充多方面可靠来源以改善这篇条目,无法查证的内容可能會因為异议提出而被移除。致使用者:请搜索一下条目的标题(来源搜索:美国众议院 — 网页、新闻、书籍、学术、图像),以检查网络上是否存在该主题的更多可靠来源(判定指引)。 美國眾議院 United States House of Representatives第118届美国国会众议院徽章 众议院旗...
Rock and pop concert venue in Frankfurt am Main BatschkappBatschkapp logoBatschkapp after the move to Seckbach (2014)LocationSeckbach, FrankfurtCoordinates50°08′07″N 8°44′21″E / 50.1353°N 8.7392°E / 50.1353; 8.7392Public transit GwinnerstraßeCapacity1,500ConstructionOpened11 December 1976 (1976-12-11)Reopened2013 (moved)Websitebatschkapp.de Batschkapp (Hessian dialect for 'flat cap') is a rock and pop concert venue in Frankfurt am Main. It i...
Unjuk rasa Pakistan 2023pendukung Imran Khan dan Imran Khan di IslamabadTanggal17 mei 2023-sekarangSebab Penangkapan Imran Khan dengan dugaan korupsi Percobaan pembunuhan Imran Khan Kabar aparat keamanan menembak demonstran Pihak terlibat pendukung Imran KhanPartai Pakistan Tehreek-e-Insaf Pemerintah PakistanTokoh utama Kepemimpinan tidak terpusat Shehbaz SharifJumlah korbanKorban jiwa3 polisi Para wanita pendukung Imran Khan Unjuk rasa Pakistan 2023 terjadi karna pada selasa 16 mei, 2023 Pih...
Kalam Gerres erytrhrourus Klasifikasi ilmiah Domain: Eukaryota Kerajaan: Animalia Filum: Chordata Kelas: Actinopterygii Ordo: Perciformes Superfamili: Percoidea Famili: GerreidaeBleeker, 1859[1] Genus Lihat teks Kalam atau ikan kapas adalah ikan dalam keluarga Gerreidae, ordo Perciformes. Keluarga ini mencakup sekitar 53 spesies yang ditemukan di seluruh dunia, terutama di daerah tropis dan beriklim hangat. Mereka kebanyakan mendiami perairan asin dan payau di pesisir, ada juga yang ...
Ricky GervaisNama lahirRicky Dene GervaisLahir25 Juni 1961 (umur 62)Reading, Inggris Mediakomedi tunggal Televisi Film Buku Radio MusikGenre Komedi gelap Cringe comedy Komedi observasional Satire Insult comedy Comedy music PasanganJane Fallon (1982–sekarang)Situs webhttp://www.rickygervais.com/ Richard Dene Gervais (/dʒərˈveɪz/ JƏR-vayz; lahir 25 Juni 1961) adalah seorang komedian, aktor, penulis, produser, dan sutradara Inggris. Dia terkenal karena ikut menciptakan, menulis, dan ...
Species of gastropod Horaiclavus madurensis Original image of a shell of Horaiclavus madurensis Scientific classification Domain: Eukaryota Kingdom: Animalia Phylum: Mollusca Class: Gastropoda Subclass: Caenogastropoda Order: Neogastropoda Superfamily: Conoidea Family: Horaiclavidae Genus: Horaiclavus Species: H. madurensis Binomial name Horaiclavus madurensis(Schepman, 1913) Synonyms[1] Drillia madurensis Schepman, 1913 Horaiclavus madurensis is a species of sea snail, a marine ...
В Википедии есть статьи о других людях с такой фамилией, см. Хохлов; Хохлов, Николай.Николай Иванович Хохлов Дата рождения 1891[1] Место рождения Москва, Российская империя Дата смерти 1953[1] Место смерти Москва, СССР Гражданство (подданство) Российская империя С...
Village in New York, United StatesGarden City, New YorkVillageIncorporated Village of Garden CityGarden City's town center in August 2017 FlagSealNickname: Stewart's FollyLocation in Nassau County and the state of New YorkGarden City, New YorkLocation on Long IslandShow map of Long IslandGarden City, New YorkLocation within the state of New YorkShow map of New YorkCoordinates: 40°43′37″N 73°38′59″W / 40.72694°N 73.64972°W / 40.72694; -73.64972Country&...
Kypello Ellados 2019-2020Κυπέλλου Ελλάδας ΟΠΑΠ 2019-20 Competizione Coppa di Grecia Sport Calcio Edizione 78ª Organizzatore EPO Date dal 24 agosto 2019al 12 settembre 2020 Luogo Grecia Partecipanti 84 Formula eliminazione diretta Risultati Vincitore Olympiacos(28º titolo) Secondo AEK Atene Semi-finalisti PAOKArīs Salonicco Statistiche Incontri disputati 69 Gol segnati 173 (2,51 per incontro) Cronologia della competizione 2018-2019 2020-2021 Manuale La...
Отто Зиффлинг Общая информация Прозвище Хольц («Древесина»)[источник не указан 2133 дня] Родился 3 августа 1912(1912-08-03)Мангейм, Германская империя Умер 20 октября 1939(1939-10-20) (27 лет)Мангейм, нацистская Германия Гражданство Веймарская республика нацистская Германия Рост 176 ...
Region of Gaul between the Seine and Loire rivers This article is about the historic region. For other uses, see Armorica (disambiguation). The Roman geographical area of Armorica. The Seine and the Loire are marked in red. In ancient times, Armorica or Aremorica (Gaulish: Aremorica; Breton: Arvorig [arˈvoːrik]; French: Armorique [aʁmɔʁik]) was a region of Gaul between the Seine and the Loire that includes the Brittany Peninsula, and much of historical Normandy.[1]...
Apulian vase by Underworld Painter, Staatliche Antikensammlungen The Underworld Painter was an ancient Greek Apulian vase painter whose works date to the second half of the 4th century BC. Career The Underworld Painter is the successor of the Darius Painter, in whose workshop he began his career and where he worked with other influential craftsmen. This was a large factory-like workshop, probably at Taras. He most frequently depicted theatrical scenes, especially ones from the Classical trage...
This article is about the Iggy Pop album. For the game genre, see Beat 'em up. This article possibly contains original research. Please improve it by verifying the claims made and adding inline citations. Statements consisting only of original research should be removed. (May 2016) (Learn how and when to remove this message) 2001 studio album by Iggy PopBeat Em UpStudio album by Iggy PopReleasedJune 18, 2001RecordedDecember 2000StudioHit Factory Criteria (Miami)GenreHeavy metalLength7...