USS Chub (SS-329) là một tàu ngầm lớp Balao từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên một loài trong họ cá chép Cyprinidae.[1][2] Nó đã phục vụ trong Thế Chiến II, thực hiện được ba chuyến tuần tra và đánh chìm được một tàu tuần traNhật Bản tải trọng 492 tấn.[10] Sau khi xung đột chấm dứt, nó đã tiếp tục hoạt động trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến năm 1948, rồi được chuyển giao cho Thổ Nhĩ Kỳ để tiếp tục phục vụ như là chiếc TCG Gür (S 334) cho đến năm 1975. Con tàu cuối cùng được hoàn trả cho Hoa Kỳ để tháo dỡ. Chub được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên tàu ngầm lớp Gato dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận.[11] Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến 400 ft (120 m).[8][12] Con tàu dài 311 ft 9 in (95,02 m) và có trọng lượng choán nước 1.526 tấn Anh (1.550 t) khi nổi và 2.424 tấn Anh (2.463 t) khi lặn.[5] Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện,[5][6] đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) khi nổi và 2.740 shp (2.040 kW) khi lặn,[5] cho phép đạt tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) và 8,75 hải lý trên giờ (16,21 km/h) tương ứng.[7] Tầm xa hoạt động là 11.000 hải lý (20.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.[7]
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy.50 caliber.[7] Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển.[8] Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.[13][14]
Khởi hành vào ngày 13 tháng 2 cho chuyến tuần tra đầu tiên tại các vùng biển Java, vịnh Bắc Bộ và biển Đông, vào ngày 3 tháng 3, Chub bị một tàu ngầm đối phương tấn công và suýt trúng ngư lôi của đối thủ. Đến ngày 29 tháng 3, nó bắt đầu theo dõi một đoàn tàu vận tải kéo dài cho đến tận ngày hôm sau, nhưng đã sáu lần phải lặn sâu để né tránh máy bay tuần tra đối phương; nó bị ném bom ở lần sau cùng nên buộc phải từ bỏ việc theo đuổi mục tiêu. Ngoài khơi vịnh Yulikan ở cực Nam đảo Hải Nam vào ngày 31 tháng 3, trong khi máy bay Nhật Bản và Đồng Minh không chiến bên trên, chiếc tàu ngầm đã cứu vớt ba phi công bị bắn rơi dưới hỏa lực bắn phá của máy bay đối phương, rồi sau đó phải rút lui nhanh để né tránh hai tàu tuần tra đối phương. Đến ngày 12 tháng 4, nó tiếp tục bị máy bay đối phương ném bom trong khi lặn, và bị mất điện và mất kiểm soát độ sâu nên phải trồi lên mặt nước; may mắn là đối thủ đã bỏ đi sau khi ném hết bom.[1]
Chuyến tuần tra thứ hai và thứ ba
Sau khi quay trở về căn cứ tại Fremantle, Australia để sửa chữa và tái trang bị từ ngày 18 tháng 4 đến ngày 14 tháng 5, Chub lên đường cho chuyến tuần tra thứ hai tại vùng biển Java. Nó đã tấn công hai tàu chở hàng nhỏ, và đánh chìm chiếc tàu quét mìnW-34. Không tìm thấy mục tiêu có giá trị nào khác, nó kết thúc chuyến tuần tra để được tái trang bị tại căn cứ vịnh Subic, Philippines từ ngày 21 tháng 6 đến ngày 15 tháng 7.[1]
Trong chuyến tuần tra thứ ba tại vùng biển Java, Chub chỉ phá hủy được một số thuyền nhỏ, nhưng tiếp tục bị máy bay đối phương tấn công. Sau khi Nhật Bảnchấp nhận đầu hàng giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột, nó quay trở về căn cứ Fremantle, rồi đi đến vịnh Subic để hoạt động huấn luyện cho đến hết năm 1945 trước khi quay trở về vùng bờ Tây Hoa Kỳ.[1]
Chub được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][2] Nó được ghi công đã đánh chìm một tàu tuần tra Nhật Bản tải trọng 492 tấn.[10]
Alden, John D., Commander (U.S. Navy Ret) (1979). The Fleet Submarine in the U.S. Navy: A Design and Construction History. Naval Institute Press. ISBN0-85368-203-8.
Bauer, K. Jack; Roberts, Stephen S. (1991). Register of Ships of the U.S. Navy, 1775–1990: Major Combatants. Westport, Connecticut: Greenwood Press. ISBN0-313-26202-0.
Blair, Clay Jr. (2001). Silent Victory: The U.S. Submarine War Against Japan. Naval Institute Press. ISBN1-55750-217-X.