USS Bullhead (SS-332) là một tàu ngầm lớp Balao từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên chung của nhiều loài cá da trơn và cá bống đầu bò.[1] Nó đã phục vụ trong Thế Chiến II, thực hiện được ba chuyến tuần tra, và trong chuyến tuần tra cuối cùng đã bị máy bay Nhật Bản đánh chìm trong biển Java vào ngày 6 tháng 8, 1945. Bullhead được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên tàu ngầm lớp Gato dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận.[10] Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến 400 ft (120 m).[8][11] Con tàu dài 311 ft 9 in (95,02 m) và có trọng lượng choán nước 1.526 tấn Anh (1.550 t) khi nổi và 2.424 tấn Anh (2.463 t) khi lặn.[5] Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện,[5][6] đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) khi nổi và 2.740 shp (2.040 kW) khi lặn,[5] cho phép đạt tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) và 8,75 hải lý trên giờ (16,21 km/h) tương ứng.[7] Tầm xa hoạt động là 11.000 hải lý (20.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.[7]
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy.50 caliber.[7] Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển.[8] Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.[12][13]
Rời Fremantle vào ngày 31 tháng 7 cho chuyến tuần tra thứ ba, cũng là chuyến cuối cùng, trong vùng biển Java, Bullhead tiếp tục hoạt động trong thành phần một "Bầy sói" vốn bao gồm các tàu ngầm Capitaine (SS-336) và Puffer (SS-268). Nó báo cáo đã băng qua eo biển Lombok vào ngày 6 tháng 8, rồi sau đó hoàn toàn mất liên lạc.[1]
Vì các tàu ngầm Hải quân Hoàng gia AnhHMS Taciturn (P334) và HMS Thorough (P324) cũng đồng thời hoạt động tại cùng khu vực vào thời gian đó, cùng với các tàu ngầm Hoa Kỳ Cod (SS-224) và Chub (SS-329), khó có thể xác định hoạt động chống ngầm nào của đối phương đã khiến Bullhead bị mất. Rất có thể vào ngày 6 tháng 8, một máy bay ném bom hạng nhẹMitsubishi Ki-51 đã tấn công một tàu ngầm bằng mìn sâu, ghi được hai quả trúng đích, và sau mười phút đã ghi nhận một mảng dầu loang lớn cùng nhiều bọt khí trồi lên từ dưới nước. Do vị trí này gần sát bờ biển Bali, địa hình núi non đã giới hạn tầm phát hiện của radar phòng không nên chiếc tàu ngầm đã không kịp đối phó với máy bay đối phương.[1]
Alden, John D., Commander (U.S. Navy Ret) (1979). The Fleet Submarine in the U.S. Navy: A Design and Construction History. Naval Institute Press. ISBN0-85368-203-8.
Bauer, K. Jack; Roberts, Stephen S. (1991). Register of Ships of the U.S. Navy, 1775–1990: Major Combatants. Westport, Connecticut: Greenwood Press. ISBN0-313-26202-0.
Blair, Clay Jr. (2001). Silent Victory: The U.S. Submarine War Against Japan. Naval Institute Press. ISBN1-55750-217-X.