USS Apogon (SS-308)

Tàu ngầm USS Apogon (SS-308) đang quay về căn cứ
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Apogon
Đặt tên theo chi cá Apogon thuộc bộ Cá vược [1][2]
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Portsmouth, Kittery, Maine[3]
Đặt lườn 9 tháng 12, 1942 [3]
Hạ thủy 10 tháng 3, 1943 [3]
Người đỡ đầu bà Helen Lorena Withers
Nhập biên chế 16 tháng 7, 1943 [3]
Xuất biên chế 1 tháng 10, 1945 [3]
Xóa đăng bạ 25 tháng 2, 1947[4]
Danh hiệu và phong tặng 6 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận Đánh chìm như mục tiêu thử nghiệm bom nguyên tử, 25 tháng 7, 1946[3]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Balao
Kiểu tàu tàu ngầm Diesel-điện
Trọng tải choán nước
  • 1.526 tấn Anh (1.550 t) (mặt nước) [4]
  • 2.414 tấn Anh (2.453 t) (lặn)[4]
Chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m) [4]
Sườn ngang 27 ft 3 in (8,31 m) [4]
Mớn nước 16 ft 10 in (5,13 m) tối đa [4]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa 11.000 hải lý (20.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[7]
Tầm hoạt động
  • 48 giờ lặn ở tốc độ 2 hải lý trên giờ (3,7 km/h)[7]
  • 75 ngày (tuần tra)
Độ sâu thử nghiệm 400 ft (120 m)[7]
Thủy thủ đoàn tối đa 10 sĩ quan, 70 thủy thủ[7]
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • radar SD phòng không [8]
  • radar SJ dò tìm mặt biển [8]
Vũ khí

USS Apogon (SS-308) là một tàu ngầm lớp Balao từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên chi cá Apogon thuộc bộ Cá vược.[1][2] Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II, thực hiện tổng cộng tám chuyến tuần tra, đánh chìm ba tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 7.575 tấn.[10] Được cho ngừng hoạt động sau khi xung đột chấm dứt vào năm 1945, con tàu được huy động vào việc thử nghiệm bom nguyên tử trong khuôn khổ Chiến dịch Crossroads tại đảo san hô Bikini, và bị đánh chìm trong thử nghiệm Baker vào ngày 25 tháng 7, 1946. Apogon được tặng thưởng sáu Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên tàu ngầm lớp Gato dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận.[11] Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến 400 ft (120 m).[8][12] Con tàu dài 311 ft 9 in (95,02 m) và có trọng lượng choán nước 1.526 tấn Anh (1.550 t) khi nổi và 2.424 tấn Anh (2.463 t) khi lặn.[5] Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện,[5][6] đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) khi nổi và 2.740 shp (2.040 kW) khi lặn,[5] cho phép đạt tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) và 8,75 hải lý trên giờ (16,21 km/h) tương ứng.[7] Tầm xa hoạt động là 11.000 hải lý (20.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.[7]

Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber.[7] Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển.[8] Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.[13][14]

Con tàu được dự định mang tên Abadejo, nhưng được đổi tên thành Apogon vào ngày 24 tháng 9, 1942 trước khi được đặt lườn tại Xưởng hải quân PortsmouthKittery, Maine vào ngày 9 tháng 12, 1942. Nó được hạ thủy vào ngày 10 tháng 3, 1943, được đỡ đầu bởi bà Helen Lorena Withers, phu nhân Chuẩn đô đốc Thomas Withers, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 16 tháng 7, 1943 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Walter Paul Schoeni.[1][2][15]

Lịch sử hoạt động

1943

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại vùng biển ngoài khơi New England, Apogon chuẩn bị để được điều động sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương. Nó khởi hành từ Căn cứ Tàu ngầm Hải quân New London vào ngày 13 tháng 9, 1943, băng qua kênh đào Panama vào ngày 25 tháng 9 và đi đến Trân Châu Cảng thuộc quần đảo Hawaii vào ngày 11 tháng 10, nơi nó tiếp tục được huấn luyện trong ba tuần lễ tiếp theo.[1]

Chuyến tuần tra thứ nhất

Khởi hành từ Trân Châu Cảng vào ngày 3 tháng 11 cho chuyến tuần tra đầu tiên, Apogon hoạt động trong phạm vi 60 hải lý (110 km) chung quanh đảo Moen, và dọc theo tuyến đường hàng hải giữa TrukKwajalein nhằm hỗ trợ cho Chiến dịch Galvanic để chiếm đóng quần đảo Gilbert. Sau chặng dừng ngắn tại đảo Johnston vào ngày 5 tháng 11 để tiếp thêm nhiên liệu, và tại khu vực tuần tra đã tiến hành ba lượt tấn công vào những mục tiêu khác nhau, nhưng chỉ đánh chìm được chiếc pháo hạmDaido Maru (2.962 tấn) vào ngày 4 tháng 12. Nó kết thúc chuyến tuần tra khi quay trở về Midway vào ngày 18 tháng 12, rồi tiếp tục đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 26 tháng 12 để được sửa chữa.[1]

1944

Chuyến tuần tra thứ hai

Trong chuyến tuần tra thứ hai từ ngày 15 tháng 1 đến ngày 9 tháng 3, 1944 tại vùng biển quần đảo Mariana, vào ngày 1 tháng 2, Apogon phát hiện một đoàn sáu tàu buôn, phóng ngư lôi tấn công và đánh chìm được một chiếc. Nó sau đó tiếp tục tấn công một tàu phụ trợ khác và cho rằng đã đánh chìm cả hai mục tiêu. Tuy nhiên cả hai chiến công này không được công nhận khi đối chiếu với tài liệu của phía Nhật Bản sau chiến tranh. Nó quay trở về Trân Châu Cảng sau 50 ngày tuần tra, và neo đậu cặp bên mạn tàu tiếp liệu tàu ngầm Bushnell (AS-15) vào ngày 10 tháng 3 để được tái trang bị. Con tàu tiếp tục được sửa chữa tại Xưởng hải quân Trân Châu Cảng từ ngày 15 đến ngày 19 tháng 3, nơi nó được thay hai chân vịt mới.[1]

Chuyến tuần tra thứ ba

Sau một giai đoạn huấn luyện, Apogon lên đường vào ngày 2 tháng 4 cho chuyến tuần tra thứ ba. Nó ghé đến đảo Johnston vào ngày 4 tháng 4 để được tiếp thêm nhiên liệu trước khi hướng sang vùng biển các đảo chính quốc Nhật Bản. Tuy nhiên do một thủy thủ bị thương do tai nạn súng cướp cò, chiếc tàu ngầm phải quay trở lại đảo để chuyển người bị thương lên bờ. Chuyến tuần tra được tiếp tục vào ngày 6 tháng 4 và kéo dài cho đến ngày 22 tháng 5 mà không tìm thấy mục tiêu nào phù hợp, nên nó quay trở về căn cứ tại Majuro và được tái trang bị từ ngày 23 tháng 5.[1]

Chuyến tuần tra thứ tư

Lên đường vào ngày 8 tháng 6 cho chuyến tuần tra thứ tư tại khu vực giữa Đài LoanPhilippines, Apogon hoạt động trong thành phần một đội tấn công phối hợp "Bầy sói" vốn bao gồm các tàu ngầm Guardfish (SS-217), Thresher (SS-200)Piranha (SS-389). Vào ngày 12 tháng 7, "Bầy sói" phát hiện một đoàn chín tàu buôn được khoảng sáu tàu hộ tống bảo vệ, và chuẩn bị để tấn công. Chiếc tàu buôn dẫn đầu đội hình phát hiện ra Apogon, nên đã đổi hướng để húc vào chiếc tàu ngầm. Apogon bị húc trúng bên mạn phải, làm hư hại bệ kính tiềm vọng và ăn-ten radar, nên phải kết thúc sớm chuyến tuần tra và về đến Midway vào ngày 22 tháng 7.[1]

Thủy thủ đoàn đã sửa chữa tạm thời bệ kính tiềm vọng trước khi Apogon tiếp tục hành trình quay trở về Trân Châu Cảng, đến nơi vào ngày 26 tháng 7. Đi vào ụ tàu tại Xưởng hải quân Trân Châu Cảng, nó được thay thế hai trục chân vịt, kính tiềm vọng và bệ cùng ăn-ten radar, đồng thời động cơ diesel chính cũng được đại tu.[1]

Chuyến tuần tra thứ năm

Trong chuyến tuần tra thứ năm từ ngày 12 tháng 9 đến ngày 28 tháng 10 tại vùng biển quần đảo Kuril, Apogon đã đánh chìm tàu tuần tra Choyo Maru số 6 (400 tấn) vào ngày 23 tháng 9,[15] rồi bốn ngày sau đó lại tiếp tục đánh chìm tàu chở hàng Hachirogata Maru (1.999 tấn) và cứu vớt hai thủy thủ Nhật Bản sống sót. Không tìm thấy mục tiêu phù hợp nào khác, nó kết thúc chuyến tuần tra khi quay trở về Midway.[1]

Chuyến tuần tra thứ sáu

Sau gần một tháng được tái trang bị, Apogon tiến hành chuyến tuần tra thứ sáu tại vùng biển quần đảo Kuril từ ngày 20 tháng 11. Nó chỉ có một lần tìm thấy mục tiêu, đã phóng ngư lôi tấn công và gây hư hại cho một tàu chở dầu vào ngày 19 tháng 12,[15] trước khi kết thúc chuyến tuần tra để quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 5 tháng 1, 1945. Con tàu lại lên đường hai ngày sau đó để quay về vùng bờ Tây, nơi nó được đại tu tại Xưởng hải quân Mare IslandVallejo, California.[1]

1945

Chuyến tuần tra thứ bảy

Trong chuyến tuần tra thứ bảy từ ngày 28 tháng 5 đến ngày 14 tháng 7, 1945 tại khu vực quần đảo Kuril và biển Okhotsk, đã tấn công một đoàn bốn tàu buôn được hộ tống vào ngày 18 tháng 6, đánh chìm được tàu vận tải Hakuai Maru (2.614 tấn) và tàu tuần tra Kusonoki Maru số 2.[15] Đến ngày 2 tháng 7, nó tiếp tục gây hư hại cho hai tàu săn ngầm số 58 và số 65[15] trước khi kết thúc chuyến tuần tra tại Midway.[1]

Chuyến tuần tra thứ tám

Khởi hành vào ngày 7 tháng 8 cho chuyến tuần tra thứ tám, cũng là chuyến cuối cùng trong chiến tranh, Apogon có mặt ngoài khơi đảo Marcus khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột. Nó quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 2 tháng 9, rồi tiếp tục quay trở về vùng bờ Tây, đi đến San Diego, California vào ngày 11 tháng 9. Con tàu được cho xuất biên chế vào ngày 1 tháng 10, 1945, và được đưa về Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương.[1][2][15]

1946

Vụ nổ hạt nhân 21 kiloton ngầm dưới nước trong thử nghiệm "Baker" tại đảo san hô Bikini, năm 1946.

Vào tháng 1, 1946, Apogon đi đến Trân Châu Cảng để chuẩn bị tham gia vào Chiến dịch Crossroads, một đợt thử nghiệm bom nguyên tử được tiến hành tại quần đảo Marshall. Nó đi đến đảo Bikini vào ngày 31 tháng 5, sống sót qua vụ nổ "Able" trên không vào ngày 1 tháng 7, nhưng bị đắm trong vụ nổ "Baker" ngầm dưới nước vào ngày 25 tháng 7, 1946.[1][2][15] Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 25 tháng 2, 1947.[1][2][15]

Phần thưởng

Apogon được tặng thưởng sáu Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][2] Nó được ghi công đã đánh chìm ba tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 7.575 tấn.[10]

Silver star
Bronze star
Dãi băng Hoạt động Tác chiến
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 6 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II

Tham khảo

Chú thích

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p Naval Historical Center. Apogon (SS-308). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2022.
  2. ^ a b c d e f g Yarnall, Paul R. “Apogon (SS-308)”. NavSource.org. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2022.
  3. ^ a b c d e f Friedman 1995, tr. 285–304
  4. ^ a b c d e f Bauer & Roberts 1991, tr. 275-280
  5. ^ a b c d e f g h Bauer & Roberts 1991, tr. 271-280
  6. ^ a b Friedman 1995, tr. 261-263
  7. ^ a b c d e f g h i j k l Friedman 1995, tr. 305–311
  8. ^ a b c d Johnston, David L. (tháng 7 năm 2019). “A Visual Guide to the U.S. Fleet Submarines Part Three: Balao and Tench Classes 1942–1950” (PDF). Navsource Naval History. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2022.
  9. ^ a b Lenton 1973, tr. 79
  10. ^ a b The Joint Army-Navy Assessment Committee. “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2022.
  11. ^ Friedman 1995, tr. 99–104
  12. ^ Friedman 1995, tr. 208–209
  13. ^ Alden 1979, tr. 48, 97
  14. ^ Blair 2001, tr. 65
  15. ^ a b c d e f g h Helgason, Guðmundur. “Apogon (SS-308)”. uboat.net. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2022.

Thư mục

Liên kết ngoài


Read other articles:

  لمعانٍ أخرى، طالع لانغلي (توضيح). لانغلي    علم شعار   الإحداثيات 49°06′15″N 122°39′29″W / 49.1041°N 122.658°W / 49.1041; -122.658  [1] تقسيم إداري  البلد كندا[2][3]  خصائص جغرافية  المساحة 10.22 كيلومتر مربع  ارتفاع 15 متر  عدد السكان  عدد السكا...

 

العلاقات السنغالية الفرنسية السنغال فرنسا   السنغال   فرنسا تعديل مصدري - تعديل   العلاقات السنغالية الفرنسية هي العلاقات الثنائية التي تجمع بين السنغال وفرنسا.[1][2][3][4][5] مقارنة بين البلدين هذه مقارنة عامة ومرجعية للدولتين: وجه المقارنة ا�...

 

Candi Srikandi adalah sebuah candi yang terletak di Kompleks Candi Arjuna, Dataran Tinggi Dieng, Kabupaten Banjarnegara. Fungsinya untuk penyembahan kepada Trimurti yakni Wisnu, Syiwa dan Brahma. Bentuk dan ukuran Candi Srikandi menyerupai kubus dengan dinding yang memiliki relief Trimurti. Pembangunan Candi Srikandi diperkirana setelah awal abad ke 10 Masehi. Candi Srikandi telah menjadi salah satu cagar budaya di Kabupaten Banjarnegara. Nama Nama Candi Srikandi berasal dari nama salah satu ...

Series of CPUs by AMD Athlon 64 X2Original logoGeneral informationLaunchedMay 31, 2005Discontinued2009Marketed byAMDDesigned byAMDCommon manufacturer(s)GlobalFoundries formerly AMD Fab 36PerformanceMax. CPU clock rate1.9 GHz to 3.2 GHzHyperTransport speeds1 GHz to 1.8 GHzArchitecture and classificationTechnology node90 nm to 65 nmMicroarchitectureK8 K10 (Kuma based models only)Instruction setMMX, SSE, SSE2, SSE3, x86-64, 3DNow!Physical specificationsCores2Socket(...

 

Final Piala Champions Eropa 1957TurnamenPiala Champions Eropa 1956–57 Real Madrid Fiorentina 2 0 Tanggal30 Mei 1957StadionStadion Santiago Bernabéu, Madrid, SpanyolWasitLeo Horn (Belanda)Penonton124.000 orang← 1956 1958 → Final Piala Champions Eropa 1957 adalah final pertandingan sepak bola Piala Champions Eropa 1956–57, yang berlangsung di Stadion Santiago Bernabéu di Madrid, Spanyol pada tanggal 30 Mei 1957. Pertandingan mempertemukan antara Real Madrid dari Spanyol dan Fi...

 

American politician Christopher T. AdamsAdams in 2021Member of the Maryland House of Delegatesfrom the 37B districtIncumbentAssumed office January 14, 2015Preceded byAdelaide C. EckardtConstituencyCaroline, Dorchester, Talbot, and Wicomico counties Personal detailsBorn (1972-06-19) June 19, 1972 (age 51)Salisbury, Maryland, U.S.Political partyRepublicanChildren3Alma materSalisbury University (BS, MBA) Christopher T. Adams (born June 19, 1972) is a Republican member of the...

† Человек прямоходящий Научная классификация Домен:ЭукариотыЦарство:ЖивотныеПодцарство:ЭуметазоиБез ранга:Двусторонне-симметричныеБез ранга:ВторичноротыеТип:ХордовыеПодтип:ПозвоночныеИнфратип:ЧелюстноротыеНадкласс:ЧетвероногиеКлада:АмниотыКлада:Синапсиды�...

 

Frank BrownleeBrownlee di Tombstone Canyon (1932)Lahir(1874-10-11)11 Oktober 1874Dallas, Texas, Amerika SerikatMeninggal10 Februari 1948(1948-02-10) (umur 73)Los Angeles, California, Amerika SerikatMakamChapel of the Pines CrematoryPekerjaanPemeranTahun aktif1911–1943 Frank Brownlee (11 Oktober 1874 – 10 Februari 1948) adalah seorang pemeran film asal Amerika Serikat. Ia tampil dalam 114 film antara 1911 dan 1943.[1] Ia lahir di Dallas, Texas dan meninggal...

 

Heyy BabyyPoster film Heyy BabyySutradaraSajid KhanProduserSajid NadiadwalaDitulis olehSajid KhanMilap ZaveriPemeranAkshay KumarVidya BalanFardeen KhanRitesh DeshmukhBoman IraniAnupam KherPenata musikShankar-Ehsaan-LoySinematograferHimman DhamijaPenyuntingRameshwar S. BhagatPerusahaanproduksiNadiadwala Grandson EntertainmentDistributorEros InternationalTanggal rilis24 Agustus 2007Durasi146 menitNegaraIndiaBahasaHindiAnggaran31 crore Heyy Babyy adalah sebuah film Hindi yang dibintangi Ak...

Questa voce sull'argomento montagne della Turchia è solo un abbozzo. Contribuisci a migliorarla secondo le convenzioni di Wikipedia. Olimpo della Misia (Uludağ)Cime del Monte UludağStato Turchia Altezza2 543 m s.l.m. Prominenza1 504 m Coordinate40°04′10″N 29°13′17″E / 40.069444°N 29.221389°E40.069444; 29.221389Coordinate: 40°04′10″N 29°13′17″E / 40.069444°N 29.221389°E40.069444; 29.221389 Mappa di locali...

 

西維珍尼亞 美國联邦州State of West Virginia 州旗州徽綽號:豪华之州地图中高亮部分为西維珍尼亞坐标:37°10'N-40°40'N, 77°40'W-82°40'W国家 美國加入聯邦1863年6月20日(第35个加入联邦)首府(最大城市)查爾斯頓政府 • 州长(英语:List of Governors of {{{Name}}}]]) • 副州长(英语:List of lieutenant governors of {{{Name}}}]])吉姆·賈斯蒂斯(R)米奇·卡邁克爾(...

 

American dramatist Reza Abdohرضا عبدهReza Abdoh in the early '90sBorn(1963-02-23)February 23, 1963Tehran, IranDiedMay 11, 1995(1995-05-11) (aged 32)New York City, USNationalityIranian-AmericanAlma materUniversity of Southern CaliforniaOccupation(s)theatre director and playwrightYears active1983-1995Parent(s)Ali Abdoh (father) Homa Mohajerin (mother)RelativesSalar Abdoh (brother) Reza Abdoh (Persian: رضا عبده; also Romanized as “Rezā Abdoh”, Persian pronunciat...

此條目需要补充更多来源。 (2021年7月4日)请协助補充多方面可靠来源以改善这篇条目,无法查证的内容可能會因為异议提出而被移除。致使用者:请搜索一下条目的标题(来源搜索:美国众议院 — 网页、新闻、书籍、学术、图像),以检查网络上是否存在该主题的更多可靠来源(判定指引)。 美國眾議院 United States House of Representatives第118届美国国会众议院徽章 众议院旗...

 

تمتلك إيطاليا تقاليد عريقة في العلم والتكنولوجيا أو التقنية العلمية والتي تعود إلى عصر النهضة والعصر الروماني. كان العصر الذهبي الإيطالي خلال عصر النهضة. وفقاً لبعض الأبحاث العلمية الحديثة كان ليوناردو دافنشي «والد العلم الحديث» الذي قادت تجاربه وطريقته العلمية الواضحة...

 

LovelessSutradaraAndrey ZvyagintsevProduser Alexander Rodnyansky Sergey Melkumov Gleb Fetisov Skenario Oleg Negin Andrey Zvyagintsev Pemeran Maryana Spivak Aleksey Rozin Matvey Novikov Marina Vasilyeva Andris Keišs Penata musik Evgueni Galperine Sacha Galperine SinematograferMikhail KrichmanPenyuntingAnna MassPerusahaanproduksi Arte France Cinéma Why Not Productions Distributor Sony Pictures Releasing(Russia)[1] Tanggal rilis 18 Mei 2017 (2017-05-18) (Cannes) 1 Juni 2...

Oppenheimer Ficha técnicaDirección Christopher NolanProducción Christopher NolanCharles RovenEmma ThomasGuion Christopher NolanBasada en Prometeo americano de Kai Bird y Martin J. SherwinMúsica Ludwig GöranssonFotografía Hoyte van HoytemaMontaje Jennifer LameVestuario Ellen MirojnickProtagonistas Cillian Murphy Emily Blunt Matt Damon Florence Pugh Josh Hartnett Casey Affleck Rami Malek Kenneth Branagh Ver todos los créditos (IMDb)Datos y cifrasPaís Estados UnidosReino UnidoAño 2023Es...

 

38th quadrennial U.S. presidential election 1936 United States presidential election ← 1932 November 3, 1936 1940 → 531 members of the Electoral College266 electoral votes needed to winTurnout61.0%[1] 4.2 pp   Nominee Franklin D. Roosevelt Alf Landon Party Democratic Republican Home state New York Kansas Running mate John Nance Garner Frank Knox Electoral vote 523 8 States carried 46 2 Popular vote 27,747,636 16,679,543 Percentage 60...

 

طلال بن عبد الله بن علي الرشيد معلومات شخصية تاريخ الميلاد سنة 1823   تاريخ الوفاة سنة 1867 (43–44 سنة)  سبب الوفاة إصابة بعيار ناري  مواطنة إمارة آل رشيد  الزوجة الجوهرة بنت فيصل بن تركي الأولاد بندر بن طلال بن عبد الله الرشيد  الأب عبد الله بن علي الرشيد  الأم من�...

Lago di ComoLarioVeduta aerea del lagoStato Italia Regione Lombardia Provincia Como Lecco Coordinate45°59′25.08″N 9°15′42.12″E45°59′25.08″N, 9°15′42.12″E Altitudine197,39 m s.l.m. DimensioniSuperficie145 km² Lunghezza45,7 km Larghezza650 m - 4,4 km Profondità massima412 m Profondità media161 m Volume23,37 km³ Sviluppo costiero170 km IdrografiaOrigineFluvio-Glaciale Bacino idrografico5039 km² Immissari pr...

 

For the TV episode, see Stolen Apples (Pee-wee's Playhouse). 2007 studio album by Paul KellyStolen ApplesStudio album by Paul KellyReleased7 July 2007RecordedAustraliaGenreFolk rockLength41:27LabelEMI MusicProducerPaul Kelly and The Boon CompanionsPaul Kelly chronology Ways & Means(2004) Stolen Apples(2007) Songs from the South Volume 2(2008) Stolen Apples is the twenty fifth album by Australian singer-songwriter Paul Kelly[1] and was released in July 2007 on EMI Music. Th...