Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên tàu ngầm lớp Gato dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận.[14] Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến 400 ft (120 m).[7][15] Con tàu dài 311 ft 9 in (95,02 m) và có trọng lượng choán nước 1.526 tấn Anh (1.550 t) khi nổi và 2.424 tấn Anh (2.463 t) khi lặn.[4] Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện,[4][5] đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) khi nổi và 2.740 shp (2.040 kW) khi lặn,[4] cho phép đạt tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) và 8,75 hải lý trên giờ (16,21 km/h) tương ứng.[6] Tầm xa hoạt động là 11.000 hải lý (20.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.[6]
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy.50 caliber.[6] Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển.[7] Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.[16][17]
Lên đường vào ngày 23 tháng 8 cho chuyến tuần tra đầu tiên, sau suốt một tháng không bắt gặp mục tiêu nào, đến ngày 25 tháng 9, Becuna phát hiện một đoàn ba tàu buôn được một tàu khu trục hộ tống. Sau khi phóng một loạt sáu quả ngư lôi nhắm vào mục tiêu, nó lặn xuống để né tránh phản công bằng mìn sâu từ chiếc tàu khu trục, và ghi nhận một vụ nổ nhưng không thể xác định kết quả. Tình huống tương tự lại xảy ra vào ngày 8 tháng 10 khi nó tấn công một tàu chở dầu được hộ tống tại eo biển Palawan, Philippines, ghi nhận hai vụ nổ. Sang ngày hôm sau, nó phối hợp cùng tàu ngầm chị em Hawkbill (SS-366) đánh chìm tàu chở hàng Tokuwa Maru (1.943 tấn). Nó kết thúc chuyến tuần tra khi quay trở về căn cứ tại Fremantle, Australia để tái trang bị vào cuối tháng 10.[1][13]
Sau khi được bảo trì tại Fremantle, Becuna lên đường vào tháng 2, 1945 cho chuyến tuần tra thứ ba tại vùng biển Đông Dương thuộc Pháp. Nó tấn công một đoàn tàu vận tải ngoài khơi mũi Paradan, Ninh Thuận vào ngày 22 tháng 2, phóng ngư lôi đánh chìm tàu chở dầu Nichiryu Maru (1.945 tấn), rồi sau đó phải lặn sâu để né tránh 70 quả mìn sâu được thả xuống bởi hai tàu hộ tống. Nó không tìm thấy mục tiêu phù hợp nào khác trong phần còn lại của chuyến tuần tra, và quay trở về căn cứ tại vịnh Subic, Philippines vốn vừa mới được giải phóng.[1][13]
Chuyến tuần tra thứ tư và thứ năm
Trong chuyến tuần tra thứ tư vào tháng 5 và đầu tháng 6, tàu buôn Nhật Bản đã trở nên hiếm hoi nên Becuna không phát hiện được mục tiêu phù hợp. Nó được tái trang bị tại Fremantle rồi tiếp tục lên đường vào ngày 21 tháng 6 cho chuyến tuần tra thứ năm. Hai lần chiếc tàu ngầm đã phải lặn khẩn cấp để né tránh thủy phi cơ tuần tra đối phương tấn công bằng bom và mìn sâu. Đến đêm 15 tháng 7, nó phát hiện qua radar một tàu chiến trong biển Java đang trên đường từ Surabaya đến Ambon, nhưng loạt ngư lôi nó phóng ra đã trượt khỏi mục tiêu. Tàu ngầm chị em Baya (SS-318) đã tiếp tục theo đuổi và phóng hai quả ngư lôi đánh chìm được tàu phóng lôiKari (khoảng 500 tấn) thuộc lớp Ōtori. Becuna kết thúc chuyến tuần tra khi quay trở về căn cứ vịnh Subic vào cuối tháng 7, và vẫn đang được tái trang bị tại đây khi Nhật Bảnchấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột.[1][13]
Becuna được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][18] Nó được ghi công đã đánh chìm hai tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 3.888 tấn.[12][13]
Alden, John D., Commander (U.S. Navy Ret) (1979). The Fleet Submarine in the U.S. Navy: A Design and Construction History. Naval Institute Press. ISBN0-85368-203-8.
Bauer, K. Jack; Roberts, Stephen S. (1991). Register of Ships of the U.S. Navy, 1775–1990: Major Combatants. Westport, Connecticut: Greenwood Press. ISBN0-313-26202-0.
Blair, Clay Jr. (2001). Silent Victory: The U.S. Submarine War Against Japan. Naval Institute Press. ISBN1-55750-217-X.