Acid nucleic là đại phân tử sinh vật trọng yếu nhất (còn lại là amino acid / Protein, carbohydrat / hợp chất hữu cơ gồm carbon và hydro, lipid / chất béo). Số lượng nhiều chúng nó tồn tại ở tất cả sinh vật, có chức năng biên soạn mã, đưa chuyển và biểu đạt thông tin di truyền. Nói cách khác, thông tin di truyền được chuyển giao thông qua trình tự acid nucleic. Phân tử DNA có chứa tất cả thông tin di truyền của giống loài sinh vật, là phân tử sợi đôi, trong đó đại đa số là đại phân tử có kết cấu hình dạng chuỗi, cũng có một phần ít hiện ra kết cấu hình dạng vòng, phân tử lượng thông thường rất lớn. RNA chủ yếu là phụ trách dịch mã và biểu đạt thông tin di truyền của DNA, là phân tử sợi đơn, phân tử lượng phải ít hơn nhiều so với DNA.
Chất tương tự acid nucleic là hợp chất tương tự kết cấu với DNA và RNA mà tồn tại ở thiên nhiên, dùng cho nghiên cứu y học và sinh vật học phân tử. Chất tương tự acid nucleic đã phát sinh biến hoá ở giữa phân tử nucleotide mà hợp thành acid nucleic cùng với nhóm gốc base chứa nitơ, đường 5-carbon và nhóm gốc phosphat mà hợp thành nucleotide.[6] Thông thường, những biến hoá này được nhóm gốc base của chất tương tự acid nucleic kết đôi và tính chất chồng chất nhóm gốc base đã phát sinh biến hoá. Ví dụ như nhóm gốc base thông dụng được kết đôi với tất cả bốn nhóm gốc base kinh điển, thêm nữa chất tương tự khung xương acid phosphoric - đường (như ANP) thậm chí có thể hình thành được ba tầng xoáy ốc.[7] Chất tương tự acid nucleic cũng gọi là nucleotide dị nguyên, đã đại biểu một trong những trụ chống chủ yếu của sinh học dị nguyên, tức là thiết kế sự sống dựa theo hình thức tự nhiên mới ra đời nhằm thay thế hoá học sinh vật.
Chất tương tự acid nucleic bao gồm acid nucleic peptide (ANP), acid nucleic khoá kín (ANL) cùng với acid nucleic ethylen glycol (ANG) và acid nucleic threose (ANT). Bởi vì sợi chuỗi chính của phân tử đã phát sinh biến hoá, chúng nó có sự khác nhau rõ ràng với DNA hoặc RNA tồn tại ở thiên nhiên.
Tác dụng
DNA là cơ sở vật chất chủ yếu nhằm tích trữ, sao chép và đưa chuyển thông tin di truyền. RNA xây dựng tác dụng trọng yếu trong quá trình sinh tổng hợp protein - trong đó, RNA vận chuyển (tRNA) phát sinh tác dụng mang dắt và dời chuyển amino acid hoạt hoá; RNA thông tin (mRNA) là khuôn mẫu của sinh tổng hợp protein; RNA ribosome (rRNA) là nơi chỗ chủ yếu của các tế bào hợp thành protein. Ngoài ra, bây giờ rất nhiều chủng loại RNA có chức năng khác, ví như RNA tiểu phân tử (miRNA). Chất tương tự acid nucleic chủ yếu dùng cho nghiên cứu y học và sinh học phân tử.[6][7]
Lịch sử
Acid nucleic do nhà sinh vật học và bác sĩ quốc tịch Thụy SĩFriedrich Miescher phân li được trước nhất vào năm 1869, gọi là nuclein.[8]
Thời kì đầu niên đại 80 thế kỉ XIX, nhà hoá học sinh vật ĐứcAlbrecht Kossel - người giành được Giải thưởng Nobel Sinh lí học hoặc Y học năm 1910, tiến một bước tinh chế thu được acid nucleic, đã phát hiện tính acid mạnh của nó. Ông ấy về sau cũng đã xác định nhóm gốc nucleobase.
Năm 1889, nhà bệnh lí học Đức Richard Altmann đã sáng tạo thuật ngữ acid nucleic này,[9] đã chọn lấy thay thế nuclein.
Năm 1938, nhà vật lí học và nhà sinh vật học Anh Quốc William Astbury và Florence Bell (về sau đổi tên thành Florence Sawyer) đã phát biểu sách đồ hoạ diễn xạtia X của DNA đầu tiên.[10]
^ abPetersson, B., Nielsen, B.B., Rasmussen, H., Larsen, I.K., Gajhede, M., Nielsen, P.E., Kastrup, J.S. Crystal structure of a partly self-complementary peptide nucleic acid (PNA) oligomer showing a duplex-triplex network: Journal of the American Chemical Society, 2005: 127 (5), 1424–1430.
^Dahm R (tháng 1 năm 2008). “Discovering DNA: Friedrich Miescher and the early years of nucleic acid research”. Human Genetics. 122 (6): 565–81. doi:10.1007/s00439-007-0433-0. PMID17901982.
^Gribbin, J.The Scientists: A History of Science Told Through the Lives of Its Greatest Inventors. New York: Random House, 2002: 546.
^“DNA Structure”. What is DNA. Linda Clarks. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2016.
Xem thêm
Palou-Mir J, Barceló-Oliver M, Sigel RK (2017). “Chapter 12. The Role of Lead(II) in Nucleic Acids”. Trong Astrid S, Helmut S, Sigel RK (biên tập). Lead: Its Effects on Environment and Health. Metal Ions in Life Sciences. 17. de Gruyter. tr. 403–434. doi:10.1515/9783110434330-012. PMID28731305.