Atropine là một loại thuốc để điều trị ngộ độc chất độc thần kinh và ngộ độc thuốc trừ sâu cũng như một số triệu chứng nhịp tim chậm và giảm lượng nước bọt trong quá trình phẫu thuật.[3] Nó thường được đưa vào cơ thể bằng tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp thịt. Dạng thuốc nhỏ mắt cũng được sử dụng để điều trị viêm tủy và suy giảm thị lực.[4] Khi tiêm tĩnh mạch atropine thường bắt đầu có tác dụng trong vòng một phút và kéo dài nửa giờ đến một giờ.[2] Một số ca nhiễm độc có thể cần liều cao hơn.
Các tác dụng phụ thường gặp bao gồm miệng khô, giãn đồng tử, bí tiểu tiện, táo bón và nhịp tim nhanh bất thường. Atropine không được sử dụng ở những người có cườm nước. Mặc dù không có bằng chứng cho thấy việc sử dụng nó trong thai kỳ sẽ tạo ra bất thường bẩm sinh, nhưng chưa có nghiên cứu kỹ về việc này. Chất này an toàn trong giai đoạn cho con bú.[5] Nó là một loại thuốc đối kháng thụ thể muscarinic (một loại kháng cholinergic) hoạt động bằng cách ức chế hệ thần kinh đối giao cảm.
^ abcBarash, Paul G. (2009). Clinical anesthesia (ấn bản thứ 6). Philadelphia: Wolters Kluwer/Lippincott Williams & Wilkins. tr. 525. ISBN9780781787635. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 11 năm 2015.
^“Atropine”. The American Society of Health-System Pharmacists. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2015.
^design, Richard J. Hamilton; Nancy Anastasi Duffy, executive editor; Daniel Stone, production editor; Anne Spencer, cover (2014). Tarascon pharmacopoeia (ấn bản thứ 15). tr. 386. ISBN9781284056716. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2015.