Share to: share facebook share twitter share wa share telegram print page

USS Aaron Ward (DD-483)

USS Aaron Ward (DD-483) approaching USS Wasp (CV-7) on ngày 17 tháng 8 năm 1942, during operations in the Solomon Islands area.
Tàu khu trục USS Aaron Ward (DD-483) đang tiếp cận tàu sân bay Wasp tại quần đảo Solomon, 1942
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Aaron Ward (DD-483)
Đặt tên theo Aaron Ward
Xưởng đóng tàu Federal Shipbuilding and Drydock Company
Đặt lườn 11 tháng 2 năm 1941
Hạ thủy 22 tháng 11 năm 1941
Nhập biên chế 4 tháng 3 năm 1942
Danh hiệu và phong tặng 4 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận Bị không kích đánh chìm tại Guadalcanal, 7 tháng 4 năm 1943
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu khu trục Gleaves
Trọng tải choán nước 1.630 tấn Anh (1.660 t) (tiêu chuẩn)
Chiều dài 348 ft 3 in (106,15 m)
Sườn ngang 36 ft 1 in (11,00 m)
Mớn nước 13 ft 2 in (4,01 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số
  • 4 × nồi hơi ống nước
  • 2 × trục
  • công suất 50.000 shp (37.000 kW)
Tốc độ 37,4 hải lý trên giờ (69 km/h)
Tầm xa 6.500 nmi (12.040 km; 7.480 mi) ở tốc độ 12 hải lý trên giờ (22 km/h; 14 mph)
Thủy thủ đoàn tối đa 16 sĩ quan, 260 thủy thủ
Vũ khí

USS Aaron Ward (DD-483) là một tàu khu trục lớp Gleaves được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia trong Thế Chiến II tại Mặt trận Thái Bình Dương cho đến khi bị không kích đánh chìm tại Guadalcanal năm 1943. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt theo tên Chuẩn đô đốc Aaron Ward (1851-1918), người tham gia cuộc Chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ.

Thiết kế và chế tạo

Aaron Ward được chế tạo tại xưởng tàu của hãng Federal Shipbuilding and Drydock CompanyKearny, New Jersey. Nó được đặt lườn vào ngày 11 tháng 2 năm 1941; được hạ thủy vào ngày 22 tháng 11 năm 1941, và được đỡ đầu bởi cô Hilda Ward, con gái Chuẩn đô đốc Ward. Con tàu được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 4 tháng 3 năm 1942 dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân Orville F. Gregor.

Lịch sử hoạt động

1942

Sau khi hoàn tất chạy thử máy ngoài khơi Casco Bay, Maine và hiệu chỉnh sau thử máy tại Xưởng hải quân New York, Aaron Ward lên đường đi sang khu vực Thái Bình Dương vào ngày 20 tháng 5 năm 1942, băng qua kênh đào Panama để đi đến San Diego, California. Ít lâu sau đó, đang khi Trận Midway được phát triển về phía Tây, nó được điều vào thành phần hộ tống cho Lực lượng Đặc nhiệm 1 dưới quyền Phó đô đốc William S. Pye, được xây dựng chung quanh bốn thiết giáp hạm và một tàu sân bay hộ tống, chiếc Long Island, khi lực lượng này lên đường tiến ra Thái Bình Dương “để hỗ trợ hoạt động chống lại đối phương nếu cần thiết”. Khi đi đến một điểm về phía Đông Bắc quần đảo Hawaii cách San Francisco, California khoảng 1.200 nmi (2.200 km), Long Island được cho tách ra khỏi lực lượng đặc nhiệm vào ngày 17 tháng 6, và Aaron Ward đã hộ tống nó quay trở lại San Diego.

Sau các hoạt động tại chỗ ngoài khơi vùng bờ Tây, Aaron Ward lên đường đi Hawaii vào ngày 30 tháng 6, rồi tiếp tục đi đến vùng quần đảo Tonga cùng Lực lượng Đặc nhiệm 18. Được phân nhiệm vụ hộ tống không lâu sau đó, nó bảo vệ cho chiếc tàu chở dầu Cimarron đi đến Nouméa. Trên đường đi, nó hai lần bắt được tính hiệu sonar nghi ngờ của tàu ngầm đối phương: một lần vào ngày 5 tháng 8, và một lần nữa vào ngày hôm sau. Tấn công vào mục tiêu nghi ngờ bằng mìn sâu, chiếc tàu khu trục tự nhận trong cả hai lần có thể đã đánh chìm tàu ngầm đối phương, nhưng những chiến công này không thể xác nhận bởi những tư liệu thu được sau chiến tranh. Được giao nhiệm vụ hộ tống cho lực lượng bảo vệ và tiếp liệu đến Guadalcanal, nó chứng kiến tàu sân bay Wasp bị trúng ngư lôi phóng tàu ngầm Nhật I-19 vào ngày 15 tháng 9.

Aaron Ward được giao một nhiệm vụ bắn phá bờ biển vào ngày 17 tháng 10. Nó đi đến ngoài khơi Lunga Roads, Guadalcanal chờ đợi một sĩ quan liên lạc Thủy quân Lục chiến, người sẽ chỉ điểm những mục tiêu đối phương trên bờ. Tuy nhiên, trước khi đón được vị khách lên tàu, nó phát hiện năm máy bay ném bom đối phương tiếp cận từ phía Tây. Chúng tấn công nhắm vào nó, nhưng lọt vào vùng hỏa lực phòng không của cả con tàu lẫn lực lượng Thủy quân Lục chiến trên bờ. Con tàu đã cơ động để né tránh; ba quả bom đã rơi cách đuôi tàu 100–300 yd (91–274 m). Lực lượng Thủy quân Lục chiến trên bờ đã bắn hạ được hai máy bay đối phương, và cùng với con tàu chia sẻ chiến công thứ ba. Sau khi trận chiến đã qua đi, chiếc tàu khu trục đón lên tàu Martin Clemens, nguyên đại diện lãnh sự Anh tại Guadalcanal, Thiếu tá Thủy quân Lục chiến C. M. Nees và Trung sĩ Thủy quân Lục chiến R. M. Howard, một nhà nhiếp ảnh; rồi nhanh chóng khởi hành đi đến khu vực mục tiêu trong vòng 40 phút. Trong ba giờ, Aaron Ward đã bắn phá các công sự, điểm đặt pháo và kho đạn của quân Nhật trên bờ. Khi quay trở lại Lunga Roads, nó tiễn những vị khách lên bờ, bước vào trực chiến do một lệnh báo động không kích nhưng đã không xảy ra, rồi rời eo biển Lengo để gia nhập trở lại lực lượng đặc nhiệm của nó.

Ba ngày sau, đang khi tiếp tục làm nhiệm vụ hộ tống vào ngày 20 tháng 10, Aaron Ward chứng kiến tàu tuần dương hạng nặng Chester trúng một quả ngư lôi phóng từ tàu ngầm Nhật I-176. Nó đi đến cứu giúp con tàu bị hư hại và thả một loạt mìn sâu vào kẻ tấn công, nhưng không mang lại kết quả. Nó hộ tống chiếc tàu tuần dương bị hư hại quay trở về Espiritu Santo. Mười ngày sau, nó tiến hành một đợt bắn phá khác xuống Guadalcanal, lần này cùng với tàu tuần dương hạng nhẹ Atlanta, soái hạm của Chuẩn đô đốc Norman Scott, và các tàu khu trục Benham, FletcherLardner.

Đi đến ngoài khơi Lunga Point lúc 05 giờ 20 phút ngày 30 tháng 10, Atlanta đón lên tàu hai mươi phút sau đó một sĩ quan liên lạc được Thiếu tướng Alexander A. Vandegrift, Tư lệnh Sư đoàn 1 Thủy quân Lục chiến phái đến. Đi đến khu vực được chỉ định chỉ sau một giờ, Atlanta khai hỏa và được Aaron Ward tiếp nối không lâu sau đó; nó tiêu phí tổng cộng 711 quả đạn pháo 5 inch. Tạm dừng để điều tra một tín hiệu nghi ngờ tàu ngầm đối phương tại khu vực lân cận, nó sau đó rời đi.

Hải chiến Guadalcanal

Aaron Ward hộ tống các tàu vận tải chất dỡ binh lính và tiếp liệu ngoài khơi Guadalcanal trong các ngày 11-12 tháng 11, bắn rơi một máy bay đối phương và làm hư hại hai chiếc khác ngoài khơi Lunga Point trong ngày hôm sau. Phía Đồng Minh nhận được tin tức về một lực lượng tàu nổi Nhật Bản lớn được gửi đến để vô hiệu hóa các hoạt động không lực Đồng Minh xuất phát từ sân bay Henderson, cũng như hỗ trợ cho việc đổ bộ lực lượng tăng viện Nhật Bản lên đảo này. Trận Hải chiến Guadalcanal trở nên một cộc mốc lớn trong suốt Chiến dịch Guadalcanal.

Chiều tối ngày 12 tháng 11, Aaron Ward rút lui về phía Đông cùng với lực lượng đặc nhiệm của nó, bao gồm năm tàu tuần dương và tám tàu khu trục dưới quyền Chuẩn đô đốc Daniel J. Callaghan, hộ tống các tàu vận tải rút lui khỏi eo biển Đáy Sắt. Sau đó lực lượng quay mũi trở lại, băng qua eo biển Lengo. Lúc khoảng 01 giờ 25 phút ngày 13 tháng 11, các tàu chiến Mỹ có trang bị radar bắt được nhiều mục tiêu trên màn hình, chính là "Lực lượng Tấn công Tình nguyện" dưới quyền Chuẩn đô đốc Hiroaki Abe, bao gồm các thiết giáp hạm HieiKirishima, tàu tuần dương hạng nhẹ Nagara cùng 14 tàu khu trục.

Aaron Ward dẫn đầu bốn tàu khu trục đi phía cuối đội hình của Callaghan, khai hỏa không lâu sau đó vào mục tiêu được cho là một thiết giáp hạm. Sau khi bắn được mười loạt pháo, nó phát hiện ra các tàu tuần dương dẫn trước đã đổi hướng, và hai quả ngư lôi đi sát cạnh nó. Một lúc sau, Barton bị nổ tung do trúng ngư lôi phóng từ tàu khu trục Nhật Amatsukaze. Tiếp tục tiến lên phía trước, Aaron Ward chuẩn bị phóng ngư lôi vào một mục tiêu bên mạn trái, nhưng đã không khai hỏa vì kịp nhận ra mục tiêu lại là tàu tuần dương San Francisco đang ở khoảng cách 1.500 yd (1,4 km). Trông thấy tàu khu trục Sterett đang hướng thẳng đến nó từ mạn trái, nó phải bẻ lái gấp sang mạn trái để tránh va chạm. Một lúc sau, nó nổ súng nhắm vào một tàu đối phương, bắn khoảng 25 loạt đạn pháo vào mục tiêu có thể là tàu khu trục Akatsuki khiến nó nổ tung và đắm với tổn thất toàn bộ thành viên thủy thủ đoàn. Đổi hướng để nhắm vào một mục tiêu khác trong sự lộn xộn, chiếc tàu khu trục né tránh được bốn loạt đạn pháo đối phương trước khi một quả đạn pháo Nhật đánh trúng bộ kiểm soát hỏa lực, buộc các khẩu pháo của nó phải điều kiển tại chỗ.

Trong những phút tiếp theo, Aaron Ward bị bắn trúng thêm tám phát trực tiếp, không thể phân biệt bạn và thù, và biết chắc đối phương đã nhận rõ kiểu dáng tàu khu trục Hoa Kỳ của nó, nên rời ra khu vực trống trải. Nó mất kiểm soát bánh lái lúc 02 giờ 25 phút, và chỉ đổi hướng bằng cách thay đổi vòng quay động cơ, nó rời sang mạn phải. Không còn phát súng nào được bắn lúc 02 giờ 30 phút, khi trận chiến rõ ràng đã kết thúc, con tàu chết đứng giữa biển lúc 02 giờ 35 phút, phòng động cơ phía trước bị ngập nước biển và không còn nước sạch cung cấp cho nồi hơi. Sử dụng bơm chạy xăng, thủy thủ đoàn bơm nước mặn vào nồi hơi và tái khởi động động cơ. Đến 05 giờ 00, nó di chuyển chậm về phía trước, băng qua eo biển Sealark; mười phút sau, các xuồng phóng lôi Hoa Kỳ tiếp cận, và nó ra tín hiệu cần hỗ trợ một tàu kéo từ Tulagi; nó chỉ có thể tiếp tục di chuyển chậm trong nữa giờ trước khi lại chết đứng giữa biển.

Ba mươi phút sau, Aaron Ward trông thấy chiếc thiết giáp hạm Nhật Bản Hiei di chuyển chầm chậm theo vòng tròn giữa Savoquần đảo Florida. Cạnh đó, gần hơn về phía Guadalcanal, là Atlanta, Portland, CushingMonssen, tất cả đều bị hư hại, cả hai tàu khu trục đều đang cháy. Tàu khu trục Nhật Bản Yudachi hiện diện chỉ để chờ đợi Portland kết liễu đánh chìm nó.

Cảm thấy cấp bách do sự hiện diện của Hiei ở khoảng cách gần, Aaron Ward lại di chuyển trở lại được lúc 06 giờ 18 phút, và hai phút sau đã gặp gỡ chiếc tàu kéo Bobolink, vốn đi đến để kéo chiếc tàu khu trục. Trước khi nối được cáp, Hiei phát hiện ra Aaron Ward và khai hỏa các khẩu pháo hạng nặng của nó. Bốn loạt hai khẩu đã được bắn ra, loạt thứ ba suýt trúng vây quanh chiếc tàu khu trục hư hỏng. May mắn cho các con tàu Hoa Kỳ, những máy bay cất cánh từ sân bay Henderson bắt đầu tấn công chiếc thiết giáp hạm, thu hút sự chú ý của nó.

Aaron Ward lại bị mất động lực lúc 06 giờ 35 phút, nhưng nó được Bobolink kéo, bắt đầu di chuyển đến khu vực an toàn. Chiếc tàu kéo chuyển giao nhiệm vụ cho một tàu tuần tra địa phương lúc 06 giờ 50 phút, và chiếc tàu khu trục thả neo trong cảng Tulagi gần đảo Makambo lúc 08 giờ 30 phút. Chín phát đạn bắn trúng trực tiếp đã khiến 15 người tử trận và 57 người bị thương. Sau khi được sửa chữa tạm thời tại chỗ, nó lên đường đi Hawaii không lâu sau đó, đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 20 tháng 12 để được sửa chữa triệt để.

1943

Aaron Ward gia nhập trở lại hạm đội vào ngày 6 tháng 2 năm 1943, tiếp nối hoạt động hộ tống không lâu sau đó. Trong một chuyến đi cùng một đoàn tàu vận tải nhỏ vào ngày 20 tháng 3, nó giúp đánh đuổi những máy bay đối phương tấn công. Ít lâu sau, vào ngày 7 tháng 4, nó hộ tống chiếc Ward cùng ba tàu đổ bộ LCT từ đảo Russell đến Savo. Dự kiến đến nơi vào khoảng 14 giờ 00, nó đi trước với vận tốc 25 hải lý trên giờ (46 km/h) để bảo vệ phòng không cho Ward và ba chiếc LCT cho đến khi chúng đi đến Tulagi. Đến khoảng trưa, chiếc tàu khu trục được cảnh báo về một cuộc không kích đang diễn ra tại Guadalcanal.

Vị trí đắm của Aaron Ward trong eo biển Đáy Sắt, ngoài khơi bờ biển phía Nam của đảo Florida.

Khi các con tàu gần tới đích đến, Aaron Ward được lệnh tách khỏi đoàn tàu để bảo vệ cho USS LST-449 ngoài khơi Togoma Point, Guadalcanal. Một trong những hành khách trên LST-449 vào lúc này là Trung úy Hải quân John F. Kennedy, vị Tổng thống tương lai của Hoa Kỳ. Gia nhập cùng chiếc LST lúc 14 giờ 19 phút, nó hướng dẫn chiếc tàu đổ bộ chạy zig-zag né tránh máy bay đối phương đang ở gần. Hạm trưởng của Aaron Ward, Thiếu tá Hải quân Frederick J. Becton, dự định rút lui về phía Đông qua eo biển Lengo, giống như các tàu vận tải và tàu hộ tống khác đang thực hiện sau khi có cảnh báo không kích tại Guadalcanal.

Bị đánh chìm

Trông thấy một trận không chiến bên trên đảo Savo, Aaron Ward theo dõi một tốp máy bay Nhật Bản hướng về phía Nam bên trên Tulagi. Đang khi bẻ lái sang mạn phải, nó bất ngờ phát hiện ba máy bay đối phương ló ra từ phía mặt trời. Lập tức bẻ lái trở lại sang mạn trái, nó tăng tốc hết mức đồng thời khai hỏa các khẩu pháo phòng không Oerlikon 20 mmBofors 40 mm, và sau đó bởi các khẩu pháo chính 5 inch/38 caliber. Tuy nhiên nó không thể ngăn chặn các máy bay của đợt tấn công thứ nhất ném ba quả bom trúng đích hoặc suýt trúng.

Quả thứ nhất suýt trúng ngay sát cạnh lườn tàu, xé toang một lổ hổng khiến phòng nồi hơi phía trước nhanh chóng bị ngập nước. Quả thứ hai đánh trúng phòng động cơ, khiến con tàu bị mất điện cung cấp đến các khẩu pháo 5 inch và 40 mm; tuy nhiên các pháo thủ đã chuyển sang vận hành tại chỗ và tiếp tục bắn vào những máy bay tấn công. Quả bom thứ ba nổ sát cạnh con tàu bên mạn trái, làm thủng một lổ bên mạn trái gần phòng động cơ phía sau. Bị mất điện điều khiển khiến kẹt bánh lái, con tàu tiếp tục chạy vòng qua mạn trái trong khi một đợt ba máy bay ném bom bổ nhào khác tiếp tục ném bom nhắm vào nó. Cho dù không có quả bom nào trúng đích trực tiếp, hai quả đã nổ sát mạn trái con tàu.

Bất chấp mọi cố gắng của thủy thủ đoàn và sự trợ giúp của các tàu quét mìn Ortolan (ASR-5)Vireo (ATO-144), con tàu tiếp tục ngập nước, và khi những nỗ lực cứu Aaron Ward thất bại, OrtolanVireo tìm cách cho mắc cạn nó tại một bãi đá ngầm gần Tinete Point thuộc quần đảo Nggela. Tuy nhiên, đến 21 giờ 35 phút, Aaron Ward đắm với đuôi chìm trước tại tọa độ 9°10′30″N 160°12′0″Đ / 9,175°N 160,2°Đ / -9.17500; 160.20000, ở độ sâu 40 sải (73 m), chỉ cách bãi đá ngầm 600 yd (550 m). Hai mười người trong số thủy thủ đoàn của Aaron Ward đã tử trận, 59 người bị thương và thêm bảy người khác mất tích.

Tái khám phá

Các thợ lặn đã tìm được xác tàu đắm của Aaron Ward vào ngày 4 tháng 9 năm 1994. Chuyến lặn đầu tiên để khám phá xác tàu diễn ra vào ngày 25 tháng 9 năm 1994. Độ sâu của xác tàu khiến các thợ lặn chỉ duy trì được khoảng 15 phút trước khi phải trở lên mặt nước.

Phần thưởng

Aaron Ward được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Tham khảo

Liên kết ngoài


This information is adapted from Wikipedia which is publicly available.

Read other articles:

City in Illinois, United StatesBraidwoodCityLocation of Braidwood in Will County, Illinois.Location of Illinois in the United StatesCoordinates: 41°16′19″N 88°13′6″W / 41.27194°N 88.21833°W / 41.27194; -88.21833CountryUnited StatesStateIllinoisCountyWillArea[1] • Total5.47 sq mi (14.17 km2) • Land5.30 sq mi (13.72 km2) • Water0.18 sq mi (0.46 km2)Elevation[2]568…

سافيناميد يعالج مرض باركنسون[1]  اعتبارات علاجية معرّفات CAS 133865-89-1  ك ع ت N04BD03  بوب كيم 131682  ECHA InfoCard ID 100.120.167  درغ بنك 06654  كيم سبايدر 116349  المكون الفريد 90ENL74SIG  كيوتو D10158  ChEMBL CHEMBL396778  بيانات كيميائية الصيغة الكيميائية C₁₇H₁₉FN₂O₂[2]  محددات ا…

As placas dinamarquesas contemporâneas vêm com eurobanda opcional. As placas de identificação de veículos na Dinamarca normalmente possuem duas letras e cinco dígitos e são emitidas diretamente pelas autoridades. As placas podem ser obtidas em concessionários de automóveis, departamentos de inspeção veicular ou centros oficiais de registro. A combinação alfabética é simplesmente um valor sequencial, mas os dígitos têm associação ao tipo de veículo.[1][2] As placas dinamarques…

The Mercury Phoenix Trust é uma fundação criada em 1992 que tem como objetivo combater a AIDS por todo o mundo.[1] Depois da morte de Freddie Mercury por complicações com a doença em novembro de 1991, os demais membros do Queen juntamente com Jim Beach, produtor do grupo, organizaram o evento The Freddie Mercury Tribute Concert, cujos recursos foram utilizados para financiar a fundação. Desde então está ativa.[1][2] Os curadores atuais são: Brian May, Jim Beach, Mary Austin (ex-noiva …

List of railway locomotives used by the Great Western Railway Great Western RailwayLogo of the Great Western Railway, incorporating the shields, crests and mottoes of the cities of London (left) and Bristol (right)History1835Act of Incorporation1838First train ran1869–927 ft 1⁄4 in (2,140 mm) Brunel gaugechanged to4 ft 8+1⁄2 in (1,435 mm) standard gauge1903Start of road motor services1923Keeps identity though the Grouping1935Centenary1948…

朝鮮半島軍事境界線 各種表記ハングル: 한반도 비무장 지대(南)チョソングル: 조선반도 비무장 지대(北)漢字: 韓半島非武裝地帶(南)朝鮮半島非武裝地帶(北)発音: ハンバンドビムジャンチデ(南)チョソンバンドビムジャンチデ(北)日本語読み: かんはんとうひぶそうちたい(南)ちょうせんはんとうひぶそうちたい(北)英語表記: Korean Demilitarized Zone (DMZ)テンプレートを表

Seasonal television show Yule LogThe fireplace that is shown onscreenCreated byFred M. ThrowerComposerVariousCountry of originUnited StatesOriginal languageEnglishNo. of episodes41ProductionCamera setupSingle-cameraRunning time4 hoursOriginal releaseNetworkWPIXReleaseDecember 24, 1966 (1966-12-24) –December 25, 1989 (1989-12-25)ReleaseDecember 25, 2001 (2001-12-25) –present External videos First hour of 1970 version on YouTube The Yule Log is a television show origin…

Dieser Artikel befasst sich mit dem Hörfunksender SWR2. Für das Internetradio siehe SWR2 Archivradio. SWR2 Kultur neu entdecken Hörfunksender (öffentlich-rechtlich) Programmtyp Kultur Empfang analog terrestrisch, Kabel, Satellit, DAB & Webradio Empfangsgebiet Baden-Württemberg Baden-Württemberg Rheinland-Pfalz Rheinland-Pfalz Sendestart 30. Aug. 1998 Sendeanstalt Südwestrundfunk Intendant Kai Gniffke Programmchef Wolfgang Gushurst Reichweite 347.000 Hörer (II/2022) Lis…

Pour les autres emplois du terme, voir Apennin (homonymie). Séisme de 1349 dans l'Apennin central Carte des Apennins en Italie Date Entre le 22 janvier 1349 et le 9 septembre 1349 Magnitude 6.6 (Richter) Intensité maximale VIII-X (Mercalli) Épicentre 42° 24′ 09″ nord, 12° 51′ 39″ est Régions affectées Italie, Apennin central Victimes Plus de 1 000 Géolocalisation sur la carte : Italie Séisme de 1349 dans l'Apennin central modifier  L'…

Ranunculales Klasifikasi ilmiah Kerajaan: Plantae Divisi: Magnoliophyta (tanpa takson): Eudikotil Ordo: Ranunculales Famili lihat teks. Ranunculales adalah salah satu ordo tumbuhan berbunga yang termasuk dalam klad Eudikotil menurut Sistem klasifikasi APG II). Bangsa ini juga diakui sebagai ordo dalam sistem klasifikasi Cronquist yang tercakup dalam anak kelas Magnoliidae. Sistem APG II (2003) menempatkannya dalam posisi pangkal dalam Eudikotil dan tidak menempatkannya di bawah klad yang lebih r…

Field of science that studies the physical and chemical behavior of metals Gold smelting workers in Siuna, Nicaragua in the late 20th centuryCasting, the process of pouring molten metal into a mold Metallurgy is a domain of materials science and engineering that studies the physical and chemical behavior of metallic elements, their inter-metallic compounds, and their mixtures, which are known as alloys. Metallurgy encompasses both the science and the technology of metals, including the productio…

This article has multiple issues. Please help improve it or discuss these issues on the talk page. (Learn how and when to remove these template messages) This article relies largely or entirely on a single source. Relevant discussion may be found on the talk page. Please help improve this article by introducing citations to additional sources.Find sources: Rockside station – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (May 2021) This article relies excess…

Muppet character Fictional character Miss PiggyThe Muppets characterFirst appearanceHerb Alpert and the TJB (1974)[1]Created byBonnie Erickson (designer)[2]Frank Oz (characterization)Voiced byFrank Oz (1976–2002)[3]Eric Jacobson (2001–present)[3]Other:Laurie O'Brien (Muppet Babies (1984), Cartoon All-Stars to the Rescue)Hal Rayle (Little Muppet Monsters)Melanie Harrison (Muppet Babies (2018))Performed byFrank Oz (1976–2002)[3]Eric Jacobson (2001–pr…

Arena at the University of Wisconsin–Madison Kohl CenterThe Madhouse in MadisonExterior view of the Kohl CenterLocation601 West Dayton StreetMadison, Wisconsin 53715-1206Coordinates43°04′10″N 89°23′49″W / 43.069420°N 89.396972°W / 43.069420; -89.396972Public transit Metro TransitOwnerWisconsin BadgersOperatorWisconsin BadgersCapacity17,287 (basketball)15,359 (hockey)SurfaceMulti-surface200' x 97' (hockey)ConstructionBroke groundSeptember 7, 1996[1]Bu…

2022 Yamaguchi gubernatorial election ← 2018 6 February 2022 2026 → Turnout34.91 1.58   Candidate Tsugumasa Muraoka Mari Chiba Party LDP JCP Popular vote 340,503 50,566 Percentage 87.07% 12.93% Governor before election Tsugumasa Muraoka Liberal Democratic Elected Governor Tsugumasa Muraoka Liberal Democratic The 2022 Yamaguchi gubernatorial election was held on 6 February 2022 to elect the next governor of Yamaguchi (山口県, Yamaguchi-ken), a prefectu…

John K. SamsonBackground informationBirth nameJohn Kristjan SamsonBorn1973 (age 49–50)OriginWinnipeg, Manitoba, CanadaGenresFolk punk, indie rock, post-punk, hardcore punkOccupation(s)Musician, songwriterInstrument(s)Vocals, guitar, bassYears active1980s–presentLabelsEpitaph, ANTI-Musical artist John Kristjan Samson (born 1973)[1] is a Canadian musician from Winnipeg, Manitoba. He is a singer-songwriter and best known as the frontman of the Canadian indie folk/rock band The …

De verzoeking van Christus, 12de-eeuws mozaïek in de Basiliek van San Marco (Venetië). De verzoeking van Christus is een episode in de synoptische evangeliën (Matteüs, Marcus en Lucas) over het leven van Jezus Christus: na zijn doop door Johannes de Doper vastte hij in de woestijn en weerstond verzoekingen die de Duivel hem liet ondergaan. Bij de doop kwam de Heilige Geest over Jezus; deze Geest leidde Jezus naar de woestijn. Direct na deze verzoekingsperiode startte het openbare optreden va…

19th-century depiction of the Chief Black Eunuch (left), a court dwarf (middle) and the Chief White Eunuch (right) The Kapi Agha (Turkish: Kapı ağası, Agha of the Gate), formally called the Agha of the Gate of Felicity (Bâbüssaâde ağası), was the head of the eunuch servants of the Ottoman Seraglio until the late 16th century, when this post was taken over by the Kizlar Agha.[1] In juxtaposition with the latter office, also known as the Chief Black Eunuch as its holders were drawn…

Russian tennis player (born 1987) Sharapova redirects here. For other uses, see Sharapov (surname). In this name that follows Eastern Slavic naming conventions, the patronymic is Yuryevna and the family name is Sharapova. Maria SharapovaSharapova in 2019Full nameMaria Yuryevna SharapovaNative nameМария Юрьевна ШараповаCountry (sports) RussiaResidenceBradenton, Florida, U.S.Born (1987-04-19) 19 April 1987 (age 36)Nyagan, Russian SFSR, Soviet UnionH…

American politician (1882–1936) This article is about the American politician. For the Australian rules footballer, see Oscar Allen (footballer). This article needs additional citations for verification. Please help improve this article by adding citations to reliable sources. Unsourced material may be challenged and removed.Find sources: Oscar K. Allen – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (October 2018) (Learn how and when to remove this templ…

Kembali kehalaman sebelumnya

Lokasi Pengunjung: 3.135.204.76