Là một động vật ăn cỏ, linh dương eland lớn không phải là loài chiếm lãnh thổ riêng, và có phạm vi nơi ở lớn. Chúng cảnh giác và thận trọng một cách tự nhiên khiến cho chúng khó tiếp cận và quan sát. Linh dương eland lớn có thể chạy với tốc độ lên tới 70 km/h và sử dụng tốc độ này như là một sự bảo vệ chống lại động vật ăn thịt. Giao phối diễn ra trong suốt cả năm, nhưng đỉnh điểm là trong mùa mưa. Chúng chủ yếu sinh sống ở thảo nguyên và rừng và tràng lá rộng.
Linh dương eland lớn được mô tả lần đầu năm 1847 bởi nhà động vật học người Anh John Edward Gray dưới tên Boselaphus derbianus.[3] Đương thời, nó được gọi là 'black-necked eland' và Gingi-ganga.[4]
Linh dương eland lớn được đặt trong chi Taurotragus, cùng với linh dương Eland (T. oryx), nó đôi khi được xem là phần của chi Tragelaphus theo phát sinh loài phân tử. Linh dương eland lớn và linh dương thường Đông Phi của chi Taurotragus kết hợp với chi Tragelaphus tạo nên tôngTragelaphini.[5] Du vài tác giả, như Theodor Haltenorth, xem hai loài Taurotragus là đồng nghĩa, chúng thường được tách riêng.[3]
^Gray, J. E. (ngày 1 tháng 10 năm 1847). “Description of a new species of Antelope from West Africa”. Journal of Natural History Series 1. 20 (133): 286–286. doi:10.1080/037454809496047.