Một số dẫn chứng cho rằng một số vị vua đã từng đừng đầu vương quốc Anglo-Saxons được coi là các vị vua đầu tiên của vương quốc Anh. Ví dụ Offa, vua của Mercia, và Egbert, vua của Wessex được các nhà văn nổi tiếng coi là những vị vua đầu tiên của vương quốc Anh, nhưng một số nhà sử học không cho rằng như vậy. Vào cuối thế kỷ thứ VIII Offa đã thống trị miền nam nước Anh và qua đời năm 796. Năm 829 Egbert chinh phục Mercia, nhưng không kiểm soát được lâu. Vào cuối thế kỷ thứ IX Wessex đã chi phối vương quốc Anglo-Saxon. Vua của Wessex là Alfred Đại đế là lãnh chúa của phía tây Mercia và đã sử dụng tước hiệu Vua của Angles và Saxons, ông không bao giờ kiểm soát được miền đông và miền bắc Anh. Con trai ông, Edward Trưởng giả đã chinh phạt đông Danelaw, nhưng con trai của Edward, Æthelstan mới là người cai trị toàn bộ vương quốc Anh sau khi chinh phạt Northumbria năm 927, ông được các nhà sử học hiện đại coi là vị vua đầu tiên của vương quốc Anh.
Trong thời gian cai trị của Henry VIII của Anh, một Đạo luật của Quốc hội tuyên bố rằng nước Anh là một đế quốc, lãnh đạo bởi Tể tướng và nhà vua sở hữu vinh dự và tài sản hoàng gia như một vị Hoàng đế. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc lập ra danh hiệu của Hoàng đế của Anh hay Hoàng đế của Vương quốc Anh. Sau khi Nữ vương Elizabeth I qua đời năm 1603 khi không có con cái, vua James VI của Scotland đã được lên ngôi vua vương quốc Anh và đã trở thành James I của Anh. Theo sự tuyên bố hoàng gia, James có tước hiệu "vua của Liên hiệp Anh" (tiếng Anh: King of Great Britain) nhưng không sáp nhập vương quốc tới năm 1707 dưới sự trị vì của nữ vương Anne, xứ Anh đã sáp nhập với Scotland để lập lên vương quốc mới theo luật liên minh năm 1707, vương quốc mới là Vương quốc Liên hiệp Anh. Tước hiệu sau này là Quân vương Vương quốc Liên hiệp Anh.
Chú ý: Danh sách này liệt kê các quốc vương và nữ vương của Vương quốc Anh (England Kingdom), không phải là quốc vương và nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland), một quốc gia có chủ quyền mà trong đó có 4 quốc gia cấu thành, gồm: Anh, Wales, Scotland, Bắc Ireland.
Có một số bằng chứng cho rằng Ælfweard của Wessex đã từng làm vua trong 4 tuần vào năm 924, giữa Edward Trưởng giả và anh trai của ông Æthelstan, mặc dù ông không được trao vương miện[3]. Tuy nhiên điều này không nhận được sự chấp nhận của các nhà sử học. Ngoài ra cũng chưa thể xác định Ælfweard tuyên bố là vua của xứ Anh hay chỉ Wessex. Có bằng chứng cho rằng là khi Edward qua đời, Ælfweard tuyên bố là vua của Wessex và Æthelstan của Mercia[4].
Quân chủ
Chân dung
Sinh
Kết hôn
Mất
Cơ sở Lên ngôi
Ælfweard[5] k. 17 tháng 7, 924 – 2 tháng 8, 924[6] (16 ngày)
Xứ Anh nằm dưới sự kiểm soát của Sweyn Forkbeard, một vị vua Đan Mạch, sau một cuộc xâm lược vào năm 1013, trong đó Æthelred bỏ ngai vàng và sống lưu vong ở Normandy.
Quân chủ
Chân dung
Sinh
Kết hôn
Mất
Cơ sở Lên ngôi
Sweyn[17] Sweyn Forkbeard 25 tháng 12, 1013 – 3 tháng 2, 1014 (41 ngày)
Sau cái chết của Sweyn Forkbeard, Æthelred đang sống lưu vong và một lần nữa lên ngôi vào ngày 3 tháng 2, 1014. Con trai ông kế nhiệm ông sau khi được bầu làm vua bởi công chúng của Luân Đôn và một phần của Hội đồng cố vấn Witan,[18] bất chấp những nỗ lực không ngừng của người Đan Mạch nhằm giành lấy vương miện từ tay người Tây Saxon.
Quân chủ
Chân dung
Sinh
Kết hôn
Mất
Cơ sở Lên ngôi
(Trị vì lần 2) Æthelred[15][16] Æthelred Bất tài 3 tháng 2, 1014 – 23 tháng 4, 1016 (2 năm, 81 ngày)
Sau trận chiến Assandun ngày 18 tháng 10, 1016, Edmund II đã ký hiệp ước với Cnut trong đó tất cả xứ Anh trừ vùng Wessex sẽ được kiểm soát bởi Cnut. Sau cái chết của Edmund ngày 30 tháng 11, 1016, Cnut cai trị vương quốc Anh với tư cách là vị vua duy nhất trong hơn 19 năm sau đó.
Quân chủ
Chân dung
Sinh
Kết hôn
Mất
Cơ sở Lên ngôi
Cnut[20] Cnut Vĩ đại 18 tháng 10, 1016 – 12 tháng 11, 1035 (19 năm, 26 ngày)
Sau khi Vua Harold bị giết trong Trận Hastings, Witan đã bầu Edgar Ætheling làm vua, nhưng sau đó người Norman đã kiểm soát đất nước và Edgar không bao giờ thực sự cai trị. Ông sau cùng quy phục William I.
Quân chủ
Chân dung
Sinh
Kết hôn
Mất
Cơ sở Lên ngôi
(Tranh cãi) Edgar II[26][27] Edgar Ætheling 15 tháng 10, 1066 – 17 tháng 12, 1066[c] (64 ngày)
Sau Trận Hastings vào ngày 14 tháng 10, 1066, William I chuyển vĩnh viễn thủ đô từ Winchester tới London. Sau khi Harold Godwinson tử trận ở Hastings, Hội đồng người Anglo-Saxon, Witenagemot bầu lên Edgar Ætheling, con trai của Edward Đày ải và cháu trai của Edmund II, làm vua. Vị vua trẻ đã không thể kháng cự quân xâm lược và chưa bao giờ đăng quang. William sau đó đăng quang và trở thành Vua William I của Anh vào ngày Giáng sinh năm 1066, tại Tu viện Westminster.
Quân chủ
Chân dung
Sinh
Kết hôn
Mất
Cơ sở Lên ngôi
William I[28] William Nhà chinh phạt[e] 25 tháng 12, 1066[i] – 9 tháng 9, 1087 (20 năm, 259 ngày)
Henry I không có người Kế vị hợp pháp là nam giới vì con trai của ông, William Adelin, đã chết trong thảm họa Con tàu trắng năm 1120. Điều này đã chấm dứt dòng dõi trực tiếp của các vị vua Norman ở Anh. Henry chọn con gái lớn của mình, Matilda (hay Bá tước phu nhân xứ Anjou sau cuộc hôn nhân thứ hai với Geoffrey Plantagenet, Bá tước Anjou và Hoàng hậu qua cuộc hôn nhân đầu tiên với Heinrich V của Thánh chế La Mã), với tư cách là người Kế vị của ông. Trước khi chọn Matilda làm người Kế vị, ông đã đàm phán để chọn cháu trai của mình Stephen của Blois làm người Kế vị của mình. Khi Henry qua đời, Stephen đến Anh, và trong một cuộc binh biến, chính ông đã lên ngôi thay cho Matilda. Khoảng thời gian sau đó được gọi là Thời kỳ Hỗn loạn (The Anarchy) - một cuộc nội chiến kéo dài hơn hai thập kỷ.
Quân chủ
Chân dung
Sinh
Kết hôn
Mất
Cơ sở Lên ngôi
Stephen[31][32] Stephen xứ Blois 22 tháng 12, 1135[iv] – 25 tháng 10, 1154 (18 năm, 308 ngày)
Matilda được tuyên bố là người kế vị giả định bởi cha bà, Henry I, sau cái chết của anh trai mình trên Con tàu Trắng, và được công nhận bởi các nam tước. Sau cái chết của Henry I, ngai vàng đã bị em họ của Matilda, Stephen xứ Blois, soán vị. Trong suốt Thời kỳ Hỗn loạn sau đó, Matilda kiểm soát xứ Anh trong vài tháng năm 1141. Bà là người phụ nữ đầu tiên làm vậy, nhưng chưa bao giờ đăng quang và hiếm khi được coi là một vị quân chủ chính thống xứ Anh.[f]
Quân chủ
Chân dung
Sinh
Kết hôn
Mất
Cơ sở Lên ngôi
Matilda[32][33] Hoàng hậu Matilda 7 tháng 4, 1141 – 1 tháng 11, 1141 (209 ngày)
Bá tước Eustace IV xứ Boulogne (k. 1130 – 17 tháng 8, 1153) được chọn làm đồng quân vương của xứ Anhbởi cha ông, Vua Stephen, vào ngày 6 tháng 4, 1152, để đảm bảo người thừa kế cho ngai vàng của ông (theo một phong tục ở Pháp, không phải ở Anh). Giáo hoàng và Giáo hội đã không đồng ý với điều này, và Eustace chưa bao giờ đăng quang. Eustace mất vào năm sau lúc 23 tuổi trước cả cha mình, và vì thế chưa bao giờ trở thành vua để tự trị vì.[34]
Vua Stephen đã đi đến một thỏa thuận với Matilda vào tháng 11 năm 1153 với việc ký kết Hiệp ước Wallingford, trong đó Stephen công nhận Henry, con trai của Matilda và người chồng thứ hai của bà Geoffrey Plantagenet xứ Anjou, với tư cách là người Kế vị của mình. Gia tộc có nguồn gốc từ cuộc hôn nhân của Matilda và Geoffrey được biết đến rộng rãi với hai cái tên, Vương tộc Anjou (theo tước hiệu Bá tước xứ Anjou của Geoffrey) và Vương tộc Plantagenet, theo biệt hiệu của ông. Trên thực tế, các quốc vương từ Henry II đến Richard II đều thuộc dòng dõi phụ hệ chính từ Geoffrey, tức là cùng chung một Vương tộc. Tuy nhiên, các sử gia hiện đại thường coi các quốc vương từ Henry II đến John thuộc về vương tộc Anjou, khi họ vẫn cai trị Đế chế Angevin, trong khi các quốc vương từ Henry III đến Richard II thuộc về vương tộc Plantagenet, khi Đế chế Angevin đã sụp đổ. Các quốc vương sau đó, dù vẫn là các dòng phụ hệ thứ của Vương tộc Anjou và Plantagenet, được gọi là Vương tộc Lancaster và Vương tộc York trong Chiến tranh Hoa Hồng.
Các quốc vương thuộc Vương tộc Anjou, thường được gọi là người Angevin (tiếng Pháp có nghĩa là "từ Anjou") cai trị Đế chế Angevin trong thế kỷ 12 và 13, một khu vực trải dài từ dãy núi Pyrenees đến Ireland. Họ không coi xứ Anh là quê hương chính của mình cho đến khi hầu hết các lãnh thổ trên lục địa của họ bị mất vào tay các thế lực khác dưới thời Vua John. Người Angevin đã bắt đầu sử dụng Vương huy Vương thất Anh, thường biểu thị biểu tượng của các vương quốc do họ hoặc những người kế vị nắm giữ hoặc tuyên bố chủ quyền, mặc dù không có biểu tượng của Ireland trong một thời gian khá dài. Dieu et mon droit lần đầu tiên được sử dụng làm phương châm bởi Richard I vào năm 1198 tại Trận chiến Gisors, nơi ông đánh bại lực lượng của Philippe II của Pháp.[35][36] Nó thường được sử dụng như châm ngôn của các quốc vương Anh kể từ khi được thông qua bởi Edward III.[35]
Quân chủ
Chân dung
Vương huy
Sinh
Kết hôn
Mất
Cơ sở Lên ngôi
Henry II[37] Henry Curtmantle 19 tháng 12, 1154[v] – 6 tháng 7, 1189 (34 năm, 200 ngày)
Henry II chọn con trai mình, Henry Vua trẻ (1155–1183), làm đồng quân vương với ông nhưng đây vốn là một phong tục của người Norman trong việc chọn ra người kế vị, và Henry Vua trẻ đã không thể sống lâu hơn cha mình để kế vị ông và trở thành vị vua tự trị vì, nên ông không được tính là một quân chủ chính thống.
Richard I[38] Richard Trái tim Sư tử 3 tháng 9, 1189[vi] – 6 tháng 4, 1199 (9 năm, 216 ngày)
Vị vua tương lai Louis VIII của Pháp đã nhanh chóng chiếm được 2/3 xứ Anh từ tháng 5 năm 1216 đến tháng 9 năm 1217 vào lúc kết thúc Chiến tranh Nam tước lần thứ nhất chống lại Vua John. Vương tử Louis khi đó đã đổ bộ lên Đảo Thanet, ngoài khơi bờ biển phía bắc Kent, vào ngày 21 tháng 5 năm 1216, và ít nhiều hành quân đến London, nơi các con phố tràn ngập những đám đông cổ vũ. Tại một buổi lễ trọng đại ở Nhà thờ Thánh Paul, vào ngày 2 tháng 6 năm 1216, trước sự chứng kiến của nhiều giáo sĩ và quý tộc xứ Anh, Thị trưởng London và vua Alexander II của Scotland, Vương tử Louis tuyên bố bản thân là Vua Louis của Anh (mặc dù không đăng quang). Trong vòng chưa đầy một tháng, "Vua Louis" đã kiểm soát hơn một nửa đất nước và nhận được sự ủng hộ của hai phần ba các nam tước. Tuy nhiên, ông đã phải chịu thất bại quân sự dưới tay hạm đội xứ Anh. Khi ký Hiệp ước Lambeth vào tháng 9 năm 1217, Louis chấp nhận một số điều khoản và đồng ý rằng ông chưa bao giờ là vị vua hợp pháp của xứ Anh.[40] "Vua Louis" vẫn là một trong những vị vua ít được biết đến nhất đã cai trị một phần đáng kể xứ Anh.[41]
Quân chủ
Chân dung
Vương huy
Sinh
Kết hôn
Mất
Cơ sở Lên ngôi
Louis[42] Louis Sư tử 2 tháng 6, 1216 – 20 tháng 9, 1217 (1 năm, 111 ngày)
Vương tộc Plantagenet lấy tên từ Geoffrey Plantagenet xứ Anjou, chồng của Matilda và cha của Henry II. Cái tên Plantagenet không được biết đến là một họ đến tận khi Richard xứ York lấy nó làm họ của mình vào thế kỷ 15. Kể từ đó, nó đã được áp dụng làm tên cho vương tộc cho các quốc vương xứ Anh từ Henry II trở đi. Tuy nhiên, các sử gia hiện đại thường coi Henry II và các con trai của ông là thành viên của Vương tộc Anjou, hay Angevin nhờ đế chế lục địa rộng lớn của mình, và hầu hết các vị vua Angevin trước John đã dành nhiều thời gian ở các thuộc địa lục địa của họ hơn là ở xứ Anh.
Kể từ Henry III, sau khi mất hầu hết đất trên lục địa, các vị vua Plantagenet đã giành nhiều thời gian ở Anh hơn. Các vương tộc Lancaster và York đều là các nhánh thứ của vương tộc Plantagenet.
Quân chủ
Chân dung
Vương huy
Sinh
Kết hôn
Mất
Cơ sở Lên ngôi
Henry III[43] Henry xứ Winchester 28 tháng 10, 1216[viii] – 16 tháng 11, 1272 (56 năm, 20 ngày)
Vương tộc Lancaster có nguồn gốc từ con trai thứ ba còn sống của Edward III, John xứ Gaunt. Henry IV soán ngôi Richard II (và cũng thay thế vị trí kế vị ngai vàng của Edmund Mortimer (khi ấy 7 tuổi), một hậu duệ của con trai thứ hai của Edward III, Lionel xứ Antwerp).
Quân chủ
Chân dung
Vương huy
Sinh
Kết hôn
Mất
Cơ sở Lên ngôi
Henry IV[49] Henry xứ Bolingbroke 30 tháng 9, 1399[xiii] – 20 tháng 3, 1413 (13 năm, 172 ngày)
Vương tộc York tuyên bố quyền thừa kế ngai vàng với nguồn gốc từ con trai thứ hai còn sống của Edward III, Lionel xứ Antwerp, nhưng nó thừa hưởng cái tên của mình từ người con trai thứ tư còn sống của Edward, Edmund xứ Langley, Duke of York đầu tiên.
Chiến tranh Hoa Hồng (1455–1485) chứng kiến ngai vàng được chuyển qua lại giữa hai vương tộc đối thủ của nhau, Lancaster và York.
Quân chủ
Chân dung
Vương huy
Sinh
Kết hôn
Mất
Cơ sở Lên ngôi
(Trị vì lần đầu) Edward IV[53] 4 tháng 3, 1461[xvi] – 3 tháng 10, 1470 (9 năm, 214 ngày)
Vương tộc Tudors có nguồn gốc theo mẫu hệ từ John Beaufort, một trong những người con ngoài giá thú của John of Gaunt (người con trai thứ ba còn sống của Edward III), với tình nhân lâu năm của Gaunt Katherine Swynford. Hậu duệ của những người con ngoài giá thú của các vị vua xứ Anh sẽ không có quyền kế vị ngai vàng, nhưng tình hình trở nên phức tạp hơn khi Gaunt và Swynford cuối cùng đã kết hôn vào năm 1396 (25 năm sau khi John Beaufort ra đời). Về cuộc hôn nhân này, Giáo hội đã tuyên bố nhà Beaufort được hợp pháp hóa thông qua một sắc lệnh của giáo hoàng trong cùng một năm.[57] Nghị viện cũng làm điều tương tự như vậy trong một Đạo luật ban hành năm 1397.[58] Trong một tuyên bố sau đó bởi con trai hợp pháp của John xứ Gaunt, Vua Henry IV, cũng công nhận tính hợp pháp của nhà Beaufort, nhưng tuyên bố họ không đủ tư cách để kế vị ngai vàng.[59] Tuy nhiên, nhà Beaufort vẫn giữ quan hệ đồng minh với các hậu duệ khác của Gaunt, những thành viên của Vương tộc Lancaster.
Cháu gái của John Beaufort, Quý bà Margaret Beaufort cưới Edmund Tudor. Tudor là con trai của một vị quan xứ Wales tên là Owain Tudur (được Anh hóa là Owen Tudor) và Catherine của Pháp, góa phụ của Vua Henry V nhà Lancaster. Edmund Tudor và anh chị em của ông hoặc là con ngoài giá thú, hoặc là con của một cuộc hôn nhân bí mật, và tài sản của họ là nhờ thiện chí của anh cùng mẹ khác cha hợp pháp của họ, Vua Henry VI. Khi Vương tộc Lancaster sụp đổ, gia tộc Tudor đã trở thành gia tộc kế tục và thay thế họ.
Vào cuối thế kỷ 15,gia tộc Tudor là hy vọng cuối cùng của những người ủng hộ vương tộc Lancaster. Con trai của Edmund Tudor trở thành vua Henry VII sau khi đánh bại Richard III trong Trận Bosworth vào năm 1485, chiến thắng Chiến tranh Hoa Hồng. Vua Henry cưới Elizabeth of York, con gái của Edward IV, qua đó thống nhất hai gia tộc Lancaster và York.
Edward VI chọn Jane Grey, một người cháu của ông[j] làm người thừa kế theo di nguyện của ông, bỏ qua thứ tự kế vị được đặt ra bởi Nghị viện chiếu theo Đạo luật Kế vị thứ ba. 4 ngày sao cái chết của ông vào ngày 6 tháng 7, 1553, Jane được tuyên bố là tân Nữ vương—người đầu tiên trong số 3 phụ nữ của vương tộc Tudor được tuyên bố là Nữ vương. 9 ngày sau đó, vào ngày 19 tháng 7, Hội đồng Cơ mật thay đổi sự ủng hộ của mình và tuyên bố chị gái cùng cha khác mẹ theo Công giáo của Edward VI là Mary làm Nữ vương. Jane sau đó bị xử tự tội phản quốc.
Quân chủ
Chân dung
Vương huy
Sinh
Kết hôn
Mất
Cơ sở Lên ngôi
Jane[63] Cửu nhật nữ vương 10 tháng 7, 1553 – 19 tháng 7, 1553 (9 ngày)
Theo các điều khoản của Hiệp ước Hôn nhân giữa Philip I của Naples (sau này là Philip II của Tây Ban Nha từ ngày 15 tháng 1 năm 1556) và Nữ vương Mary I, Philip được hưởng các tước hiệu của Mary và danh dự miễn là họ vẫn kết hôn. Tất cả các tài liệu chính thức, bao gồm Đạo luật của Nghị viện, phải được ghi ngày tháng với tên của cả hai vợ chồng. Một Đạo luật của Nghị viện đã trao cho ông ta danh hiệu vua và tuyên bố rằng ông sẽ hỗ trợ Nữ vương trong việc quản lý hạnh phúc các vương quốc và lãnh thổ của bà.[66] (mặc dù ở những nơi khác, Đạo luật vẫn nói rằng Mary là "nữ vương duy nhất"). Tuy nhiên, Philip lại vẫn đồng trị vì với vợ của mình.[65][l]
Elizabeth I[70] Nữ vương Đồng trinh 17 tháng 11, 1558[xxii] – 24 tháng 3, 1603 (44 năm, 128 ngày)
Sau một cuộc đảo chính vào năm 1653, Oliver Cromwell đã trực tiếp kiểm soát Anh từ tay Nghị viện. Ông giải tán Nghị viện Tàn dư với tư cách người đứng đầu lực lượng quân sự và Anh bước vào thời kỳ Bảo hộ, dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Cromwell với danh hiệu Bảo hộ công.
Richard Cromwell đã bị Ủy ban An ninh Anh cưỡng chế phế truất vào tháng 5 năm 1659. Xứ Anh khi ấy không có bất kỳ nguyên thủ quốc gia nào. Sau gần một năm vô chính phủ, chế độ quân chủ đã được trung hưng khi Charles II trở về từ Pháp để nhận ngai vàng.
Mặc dù chế độ quân chủ được phục hồi năm 1660, nhưng không ổn định cho tới Cách mạng vinh quang năm 1688 khi Nghị viện cấm người công giáo La Mã lên ngôi.
James II bị Nghị viện phế truất chưa đầy 4 năm sau khi lên ngôi, bắt đầu giai đoạn chuyển tiếp thứ hai của thế kỷ. Để giải quyết câu hỏi ai sẽ thay thế vị vua bị phế truất, một Nghị viện Công ước được triệu tập đã bầu chọn con gái của James là Mary II và chồng của bà (cũng là cháu trai gọi ông là cậu) William III làm đồng quân chủ, trong Cách mạng Vinh quang.
Vương tộc Stuart và Orange
Quân chủ
Chân dung
Vương huy
Sinh
Kết hôn
Mất
Cơ sở Lên ngôi
Mary II[81] 13 tháng 2, 1689[xxvii] – 28 tháng 12, 1694 (5 năm, 319 ngày)
30 tháng 4, 1662 Cung điện Thánh JamesCon gái của James II và Anne Hyde
Trong khi James và các hậu duệ của mình tiếp tục tuyên bố với Ngai vàng, tất cả các tín đồ Công giáo (như James và con trai mình là Charles) đã bị cấm lên ngôi chiếu theo Đạo luật Dàn xếp 1701, ban hành bởi Anne, em gái theo Tin lành của James.
Anh [England], Scotland và Ireland đã có chung một quân chủ trong hơn 100 năm, từ Liên minh vương thất vào năm 1603, khi Vua James VI của Scotland kế vị ngai vàng xứ Anh và Ireland từ bà họ của mình, Nữ vương Elizabeth I. Mặc dù được mô tả là một Liên minh vương thất, nhưng thực tế cho đến năm 1707, hai vương thất riêng biệt mới chính thức được kết hợp làm một.
Đã có những nỗ lực vào năm 1606, 1667 và 1689 nhằm thống nhất Anh và Scotland bằng Đạo luật của Nghị viện nhưng phải đến đầu thế kỷ 18, ý tưởng này mới nhận được sự ủng hộ của cả hai thể chế chính trị đằng sau nó, mặc dù vì những lý do khá khác nhau.
Bảng biểu quân chủ vương quốc Anh
Ghi chú
Chung
^Æthelred bị lưu đày vào giữa năm 1013, theo sau các cuộc tấn công của người Đan Mạch, nhưng được mời trở lại ngai vàng sau cái chết của Sweyn Forkbeard vào năm 1014.[15]
^Harold chỉ được công nhận là Nhiếp chính cho đến năm 1037, khi ông được công nhận là vua.[22]
^Sau khi trị vì được khoảng 9 tuần, Edgar Atheling quy phục William I, người đã giành được quyền kiểm soát khu vực phía nam và phía tây London.[26]
^Matilda không được liệt kê là một vị quân chủ xứ Anh trong nhiều phả hệ trong các văn bản, bao gồm cả Carpenter, David (2003). A Struggle for Mastery. tr. 533.; Warren, W.L. (1973). Henry II. Berkeley. tr. 176. ISBN9780520022829.; and Gillingham, John (1984). The Angevin Empire. tr. x..
^Ngày mất của Edward II bị tranh cãi bởi sử gia Ian Mortimer, người lập luận rằng ông có thể không bị sát hại mà bị giam cầm ở châu Âu trong vài năm nữa.[46]
^Edward V bị Richard III phế truất, người đã soán ngôi với lý do Edward là con ngoài giá thú. Ông chưa bao giờ được trao vương miện.[54]
^Edward Hall và Raphael Holinshed đều ghi lại một đám cưới bí mật trước đó giữa Henry và Anne, được tiến hành tại Dover vào ngày 15 tháng 11 năm 1532.
^Bà ngoại của Grey là Mary Tudor, là em gái ruột của Vua Henry VIII, bố của Edward VI
^Philip không có ý định trở thành một người phối ngẫu đơn thuần; đúng hơn, ông muốn trở thành đồng quân vương với vợ của mình là Mary I. (Xem Đạo luật Hôn nhân giữa Nữ vương Mary với Philip của Tây Ban Nha.) Tuy nhiên, mức độ quyền lực và địa vị của ông không rõ ràng. Đạo luật đã trao cho ông ta danh hiệu vua và tuyên bố rằng ông sẽ hỗ trợ Nữ vương trong việc quản lý hạnh phúc các vương quốc và lãnh thổ của bà, nhưng ở những nơi khác lại nói rằng Mary sẽ là Nữ vương duy nhất.
^Vua Philip đồng cai trị với vợ của mình, tuy nhiên vua Philip lại không biết tiếng Anh vì vậy đã ra lệnh tất cả các vấn đề quốc gia đều được thực hiện bằng tiếng Latin và tiếng Tây Ban Nha.[65][67] Tiền xu được đúc có hình của cả Mary và Philip, và Quốc huy Anh có cả biểu tượng cá nhân của Philip để biểu thị triều đại chung của họ.[68] Các đạo luật đã được thông qua ở Anh và ở Ireland rằng bất kỳ ai từ chối Philip với tư cách là một vị vua sẽ bị kết tội phản quốc. (xem Đạo luật Phản quốc 1554).[69]
^Pratt, David (2007). The political thought of King Alfred the Great. Cambridge Studies in Medieval Life and Thought. Fourth Series. 67. Cambridge University Press. tr. 106. ISBN978-0-521-80350-2.; “Kings and Queens of England”. britroyals.com. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2015.; “Alfred 'The Great' (r. 871–899)”. royal.gov.uk. 12 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.
^ abKeynes, Simon (2001). “Edward the Elder”. Trong Higham, N. J.; Hill, D. H. (biên tập). Edward, King of the Anglo-Saxons. Routledge. tr. 50–51.
^Thacker, Alan (2001). “Dynastic Monasteries and Family Cults”. Trong Higham, N. J.; Hill, D. H. (biên tập). Edward the Elder. Routledge. tr. 253.
^“Aethelstan”. archontology.org. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2007.; “Athelstan (r. 924–939)”. royal.gov.uk. 12 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.
^“Eadmund (Edmund)”. archontology.org. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2007.; “Edmund I (r. 939–946)”. royal.gov.uk. 12 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.
^“Eadred (Edred)”. archontology.org. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2007.; “King Edred”. britroyals.com. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2007.; “Edred (r. 946–55)”. royal.gov.uk. 12 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.
^“Eadwig (Edwy)”. archontology.org. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2007.; “Edwy”. newadvent.org. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 4 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2007.; “Edwy (r. 955–959)”. royal.gov.uk. 12 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.
^“Cnut (Canute)”. archontology.org. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2007.; “Canute 'The Great' (r. 1016–1035)”. royal.gov.uk. 12 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.
^“Henry III (r. 1216–1272)”. royal.gov.uk. 12 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.; Fryde 1996, tr. 37Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFFryde1996 (trợ giúp).
^“Edward II (r. 1307–1327)”. royal.gov.uk. 12 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.; Fryde 1996, tr. 39Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFFryde1996 (trợ giúp).
^Mortimer, Ian (2008). The Perfect King: The Life of Edward III, Father of the English Nation. ISBN978-0-09-952709-1.
^“Edward III (r. 1327–1377)”. royal.gov.uk. 12 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.; Fryde 1996, tr. 39Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFFryde1996 (trợ giúp).
^“Richard II (r. 1377–1399)”. royal.gov.uk. 12 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.; Fryde 1996, tr. 40Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFFryde1996 (trợ giúp).
^ ab“Edward V”. archontology.org. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2007.
^“Edward V (Apr–Jun 1483)”. royal.gov.uk. 14 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.; Fryde 1996, tr. 41Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFFryde1996 (trợ giúp).
^“Richard III”. archontology.org. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2007.; “Richard III (r. 1483–1485)”. royal.gov.uk. 14 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.
^Michael K. Jones and Malcolm G. Underwood, The King's Mother: Lady Margaret Beaufort, Countess of Richmond and Derby, (Cambridge University Press, 1995), 19–20.
^Chris Skidmore, The Rise of the Tudors: The Family That Changed English History, (St.Martin's Press, 2013), 22.
^“Henry VII (r. 1485–1509)”. royal.gov.uk. 14 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.
^“Henry VIII (r.1509–1547)”. royal.gov.uk. 14 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.; Fryde 1996, tr. 42Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFFryde1996 (trợ giúp).
^“Edward VI (r.1547–1553)”. royal.gov.uk. 14 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.
^Pollard, A. F. (2007). The History of England – From the Accession of Edward VI to the Death of Elizabeth (1547–1603). Read Books.; Groot, Wim de (2005). The Seventh Window: The King's Window Donated by Philip II and Mary Tudor to Sint Janskerk in Gouda (1557). Uitgeverij Verloren.
^Marks, Richard; Payne, Ann; British Museum; British Library biên tập (1978). British heraldry from its origins to c. 1800. British Museum Publications Ltd.; The Numismatist. American Numismatic Association. 1971.
^Edwards, Robert Dudley (1977). Ireland in the age of the Tudors: the destruction of Hiberno-Norman civilisation. Taylor & Francis.
^“Elizabeth I (r.1558–1603)”. royal.gov.uk. 14 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.
^“William III”. archontology.org. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2007.
^“Anne (r. 1702–1714)”. royal.gov.uk. 30 tháng 12 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.; “Anne (England)”. archontology.org. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2007.
^“Welcome”. parliament.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2008.