Việc chế tạo lớp tàu khu trục Fubuki tiên tiến được chấp thuận vào năm tài chính 1923 như một phần của chương trình có tham vọng cung cấp cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản một ưu thế về chất lượng so với những tàu chiến hiện đại nhất của thế giới.[3] Khả năng thể hiện của lớp Fubuki là một bước nhảy vọt so với các thiết kế tàu khu trục trước đó, nên chúng được gọi là các "tàu khu trục đặc biệt" (tiếng Nhật: 特型 - Tokugata). Kích thước lớn, động cơ mạnh mẽ, tốc độ cao, bán kính hoạt động lớn và vũ khí trang bị mạnh chưa từng có khiến cho các tàu khu trục này có được hỏa lực tương đương nhiều tàu tuần dương hạng nhẹ của hải quân các nước khác.[4]Ushio, được chế tạo tại hãng Uraga Dock Company, là chiếc thứ mười của một loạt tàu được cải tiến, bao gồm kiểu tháp pháo có thể nâng các khẩu pháo chính 127 mm (5 inch)/50 caliber Kiểu 3 lên một góc 75° so với nguyên thủy 40°, cho phép sử dụng chúng như pháo lưỡng dụng có thể chống lại máy bay.[3]
Ushio được đặt lườn vào ngày 24 tháng 12 năm 1929. Nó được hạ thủy vào ngày 17 tháng 11 năm 1930 và đưa ra hoạt động vào ngày 15 tháng 11 năm 1931.[5] Nguyên được dự định mang số hiệu đơn giản là "Tàu khu trục số 54", nó được hoàn tất dưới tên gọi Ushio.
Lịch sử hoạt động
Sau sự kiện Thượng Hải năm 1932, Ushio được giao nhiệm vụ tuần tra trên sông Dương Tử. Vào năm 1935, sự cố đối với Hạm đội 4 Hải quân Đế quốc Nhật Bản, khi một số lớn tàu chiến bị hư hại bởi một cơn bão, đã khiến nó cùng với các tàu chị em phải nhanh chóng được cho quay trở lại ụ tàu để gia cường thêm lườn tàu và tăng thêm trọng lượng rẽ nước. Từ năm 1937, Ushio hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ lực lượng Nhật Bản lên Thượng Hải và Hàng Châu. Từ năm 1940, nó được phân công tuần tra dọc theo bờ biển và hỗ trợ cho việc đổ bộ lên miền Nam Trung Quốc, và sau đó là việc chiếm đóng Đông Dương thuộc Pháp.
Vào đầu năm 1944, Ushio được phân công nhiệm vụ hộ tống, hầu hết là các đoàn tàu vận tải chuyển binh lính từ Truk. Từ tháng 4 đến tháng 8, nó lại được đặt căn cứ tại Ōminato để tuần tra tại các vùng biển phía Bắc cũng như hộ tống các tàu bè đi lại giữa Hokkaidō với Yokosuka hoặc Kure. Trong trận chiến vịnh LeyteUshio được tái bố trí vào Lực lượng nghi binh của Đô đốc Kiyohide Shima tham gia trận chiến eo biển Surigao vào ngày 24 tháng 10, rồi tiếp tục ở lại Manila sau trận đánh để hộ tống các đoàn tàu vận tải tại Philippine. Nó bị hư hại vào ngày 13 tháng 9 trong một cuộc không kích của máy bay Mỹ xuống Manila, trong đó động cơ bên mạn phải bị hỏng và 23 thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng. Sau khi được sửa chữa tại Singapore trong tháng 11, Ushio được phân về Hạm đội 2 Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Trong tháng 12, nó đã trợ giúp cho chiếc tàu tuần dương Myōkō bị hư hại.
^Các đặc tính lấy từ: Fitzsimons, Bernard, ed. Illustrated Encyclopedia of 20th Century Weapons and Warfare (London: Phoebus, 1978), Volume 10, trang 1040-1041, "Fubuki".
^ abNishidah, Hiroshi (2002). “Fubuki class 1st class destroyers”. Materials of the Imperial Japanese Navy. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2010.
Nishidah, Hiroshi (2002). “Fubuki class destroyers”. Materials of the Imperial Japanese Navy. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2010.