Vào tháng 6 năm 1920, Barker khởi hành đi sang khu vực Trung Đông để gia nhập Đội khu trục 35 trực thuộc Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ tại vùng biển Thổ Nhĩ Kỳ. Nó đã phục vụ trong nhiều tháng cùng Ủy ban Cứu trợ Hoa Kỳ tại Armenia, và đã viếng thăm nhiều cảng Thổ Nhĩ Kỳ và Trung Đông, trước khi lên đường hướng sang phía Đông vào cuối năm 1921 cho một lượt phục vụ kéo dài bốn năm tại Viễn Đông cùng Hạm đội Á Châu. Nó hoạt động tại các vùng biển Philippines và châu Á cho đến khi rời Manila vào tháng 5 năm 1925 để quay trở về Hoa Kỳ.
Trong hai năm tiếp theo, Barker phục vụ cùng Lực lượng Tuần tiễu dọc theo vùng bờ Đông Hoa Kỳ, và tuần tra ngoài khơi Nicaragua từ ngày 10 đến ngày 31 tháng 1 năm 1927 trong chiến dịch thứ hai tại đây. Sau đó nó nhận nhiệm vụ một lượt phục vụ kéo dài hai năm cùng Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ tại châu Âu, thực hiện các chuyến viếng thăm thiện chí đến nhiều cảng châu Âu. Từ tháng 8 năm 1929 đến tháng 12 năm 1941, Barker được điều động sang Trạm châu Á và phục vụ cùng các đội khu trục trực thuộc Hải đội châu Á. Trong giai đoạn có nhiều biến động tại khu vực này, nó đã tham gia bảo vệ các quyền lợi của Hoa Kỳ tại đây.
Sự cố SS President Hoover
Sáng sớm ngày 11 tháng 12 năm 1937, tàu biển chở hành kháchSS President Hoover thuộc hãng tàu Dollar Steamship Lines bị mắc cạn do một cơn bão tại Kasho-to, phía Đông Đài Loan.[2]Barker lập tức được phái đi từ Căn cứ hải quân Olongapo, và tàu khu trục chị em USS Alden cũng được phái đi từ Manila để trợ giúp.[2] Hai chiếc tàu khu trục chỉ đạt tốc độ tối đa 12 hải lý trên giờ (22 km/h) do biển động mạnh, nhưng cuối cùng cũng đến được Kasho-to lúc 12 giờ 45 phút ngày hôm sau. Vào lúc này, 330 thành viên thủy thủ đoàn của Hoover đã hầu như đưa được 503 hành khách lên bờ an toàn.[2] Tuy nhiên một số thủy thủ của Hoover đã xâm nhập vào hầm rượu của chiếc tàu chở hành khách, uống rượu, và khi lên bờ bắt đầu quấy rối các hành khách nữ.[2] Một nhóm tsi7 quan và thủy thủ của Alden đã lên chiếc Hoover để bảo vệ tài sản, trong khi các đội đổ bộ của Alden và Barker đã lên bờ để duy trì trật tự.[2]
Đến tháng 2 năm 1942, Barker tham gia một nỗ lực tìm cách ngăn chặn cuộc tiến quân của Nhật Bản vào Đông Ấn thuộc Hà Lan. Nó tham gia các hoạt động phòng không ngoài khơi Bali vào ngày 4 tháng 2 và đảo Banka vào ngày 15 tháng 2. Nó bị hư hại do những quả bom ném suýt trúng trong hoạt động tại Banka, đòi hỏi phải được sửa chữa khẩn cấp. Nó rút lui về vịnh Exmouth, Australia, đến nơi vào ngày 19 tháng 2 để sửa chữa và đại tu.
Từ ngày 6 tháng 9 năm 1943 đến ngày 1 tháng 10 năm 1944, Barker thực hiện hai chuyến đi hộ tống vận tải vượt Đại Tây Dương đến Anh Quốc cùng bốn chuyến khác đến Bắc Phi. Trong thời gian còn lại của chiến tranh, nó đảm nhiệm hộ tống vận tải tại vùng biển Caribe, đến Newfoundland và dọc theo bờ Đông Hoa Kỳ. Nó đi đến Philadelphia vào ngày 4 tháng 6 năm 1945, nơi nó được cho ngừng hoạt động vào ngày 18 tháng 7 và bị bán để tháo dỡ vào ngày 30 tháng 11 năm 1945.
^ abcdeThomas, Donald I., CAPT USN "Recommissioning Destroyers, 1939 Style" United States Naval Institute Proceedings September 1979 tr. 71
^ abcdeTully, Anthony; Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2012). “Stranding of S.S. PRESIDENT HOOVER - December 1937”. Rising Storm – The Imperial Japanese Navy and China 1931–1941. Imperial Japanese Navy Page. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013.
Gill, G. Hermon (1957). Royal Australian Navy 1939-1942. Australia in the War of 1939–1945. Series 2 – Navy. 1. Canberra: Australian War Memorial. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2014.
Masterson, Dr. James R. (1949). U. S. Army Transportation In The Southwest Pacific Area 1941-1947. Washington, D. C.: Transportation Unit, Historical Division, Special Staff, U. S. Army.
Liên kết ngoài
Willshaw, Fred. “USS Barker (DD-213)”. Destroyer Photo Archive. Paul R. Yarnall & NavSource Naval History.