Phần Dương Thiện Chiếu
Phần Dương Thiện Chiếu (zh: 汾陽善昭, fényáng shànzhāo, ja: hun'yo zen-shō, 947-1024) là Thiền sư Trung Quốc đời Tống. Sư thuộc tông Lâm Tế và là pháp tử của Thiền sư Thủ Sơn Tỉnh Niệm. Đệ tử nối pháp của sư có Thạch Sương Sở Viên Thiền sư.
Tương truyền rằng, sư từng tham vấn rất nhiều Thiền sư đương thời để học hỏi tất cả những tinh hoa của Thiền tông trong thời kì suy tàn. Vì vậy, những nét đặc trưng của những tông Thiền khác đều được tông Lâm Tế hấp thụ và lưu truyền. Sư cũng là một trong những vị Thiền sư đầu tiên phát triển Văn học Thiền thông qua việc trứ tác các bài kệ tụng và thêm lời bình luận của mình vào các công án, pháp ngữ của Thiền sư, cổ đức đời trước.
Cơ duyên và hành trạng
Một phần của loạt bài về | Thiền sư Trung Quốc |
---|
|
|
|
|
- Hi Thiên
- Đạo Ngộ, Duy Nghiễm
- Bảo Thông, Thiên Nhiên
- Sùng Tín , Đàm Thịnh
- Viên Trí, Đức Thành, Vô Học
- Tuyên Giám, Thiện Hội
- Khánh Chư, Lương Giới
- Nghĩa Tồn, Toàn Hoát, Sư Ngạn
- Văn Yển, Huệ Lăng, Sư Bị
|
|
|
|
- Huệ Nam
- Tổ Tâm, Khắc Văn, Thường Thông
- Ngộ Tân, Duy Thanh, Huệ Hồng, Tùng Duyệt
- Tuệ Phương, Trí Thông, Thủ Trác
- Thủ Trác, Giới Kham, Đàm Bí
- Tùng Cẩn, Hoài Sưởng
|
- Phương Hội
- Thủ Đoan, Pháp Diễn
- Phật Cần, Phật Nhãn, Phật Giám
- Tông Cảo, Thiệu Long, Huệ Viễn
- Đức Quang, Đàm Hoa, Đạo Tế
- Cư Giản, Thiện Trân, Hàm Kiệt
- Đại Quan, Hành Đoan, Huệ Khai
- Tổ Tiên, Sùng Nhạc, Đạo Sinh
- Nguyên Hi, Trí Cập, Huệ Tính
- Phổ Nham, Đạo Trùng, Sư Phạm
- Đức Huy, Hành Diễn, Đại Hân
- Đạo Long, Trí Ngu, Hành Di
- Diệu Luân, Tổ Khâm, Tổ Nguyên
- Huệ Đàm, Nhất Ninh, Tông Hâm
- Tuệ Bảo, Nguyên Diệu, Tịnh Giới
- Thanh Củng, Minh Bản, Tiên Đổ
- Duy Tắc, Nguyên Trường, Không Độ
- Thời Uỷ, Phổ Trì, Huệ Sâm
- Phổ Từ, Minh Tuyên, Bản Thụy
- Minh Thông, Pháp Hội
- Đức Bảo, Đức Thanh
- Châu Hoằng, Chính Truyền
- Viên Ngộ, Viên Tu
- Viên Tín, Nhân Hội
- Thông Kỳ, Thông Dung, Đạo Mân
- Thông Tú, Thông Vấn
- Thủy Nguyệt, Chuyết Chuyết
- Đạo An, Long Kỳ, Chân Phác
- Hành Sâm, Hành Trân
- Siêu Vĩnh, Như Trường, Siêu Cách
- Tử Dung, Tính Âm
- Hư Vân, Lai Quả
|
- Lương Giới
- Bản Tịch, Đạo Ưng, Cư Độn
- Huệ Hà, Đạo Phi
- Quán Chí, Duyên Quán, Cảnh Huyền
- Nghĩa Thanh, Đạo Khải
- Tử Thuần, Tự Giác, Pháp Thành
- Chính Giác, Thanh Liễu, Nhất Biện
- Huệ Huy, Tông Giác, Tăng Bảo
- Huệ Tộ, Trí Giám, Tăng Thế
- Minh Quang, Như Tịnh, Như Mãn
- Đức Cử, Hành Tú
- Huệ Nhật, Vân Tụ, Phúc Dụ
- Vĩnh Dư, Đại Chứng, Văn Thái
- Phúc Ngộ, Văn Tài, Tử Nghiêm
- Liễu Cải, Khế Bân, Khả Tùng, Văn Tải
- Tông Thư, Thường Trung, Thường Thuận
- Tuệ Kinh, Phương Niệm
- Nguyên Lai, Nguyên Cảnh
- Nguyên Hiền, Viên Trừng
- Đạo Ngân, Đạo Thịnh, Đạo Bái
- Minh Tuyết, Minh Phương, Minh Vu
- Hoằng Kế, Đại Văn, Đại Tâm
- Tịnh Nột, Tịnh Đăng, Tịnh Chu
- Hưng Kỳ, Hưng Trù, Hưng Long
- Trí Tiên, Trí Giáo
- Pháp Hậu, Giới Sơ
- Nhất Tín, Đỉnh Triệt
- Hư Vân , Thánh Nghiêm
|
- Văn Yển
- Trừng Viễn, Nhân Úc
- Đạo Thâm, Thủ Sơ
- Duyên Mật, Sư Khoan, Hạo Giám
- Quang Tộ, Huệ Viễn, Phong Tường
- Lương Nhã, Ứng Chân, Sư Giới
- Trọng Hiển, Thiện Tiêm
- Thừa Cổ, Hiểu Thông, Hoài Trừng
- Nghĩa Hoài, Thảo Đường, Truyền Tông
- Liễu Nguyên, Khế Tung, Giám Thiều
- Tông Bản, Pháp Tú
- Trọng Nguyên, Ứng Phu, Pháp Anh
- Sùng Tín, Thiện Bản, Thanh Mãn
- Duy Bạch, Tông Vĩnh, Tông Trách
- Hoài Thâm, Tự Như
- Tư Huệ, Tông Diễn
- Huệ Quang, Văn Tuệ, Đạo Xương
- Nguyên Diệu, Lương Khánh, Chính Thụ
- Thâm Tịnh
|
|
|
|
|
Cổng thông tin Phật giáo | |
Sư họ Du (兪), quê ở Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây. Từ nhỏ sư đã có tính cách trầm tư ít nói, trí huệ hơn người. Vì cha mẹ mất sớm nên sư xuất gia và du phương.
Sau khi xuất gia, sư đi đến tham học tại nhiều đạo tràng thuộc các phái Thiền khác nhau. Tương truyền sư đã đến tham vấn với 71 vị thiền sư nhưng không hội được yếu chỉ.
Sau, sư đến pháp hội của Thiền Sư Tỉnh Niệm ở Thủ Sơn. Một hôm, sư hỏi: "Bách Trượng cuốn chiếu, ý chỉ thế nào?". Thủ Sơn đáp: "Áo rồng vừa phất toàn thể hiện". Sư hỏi: "Ý thầy thế nào?". Thủ Sơn đáp: "Chỗ voi đi bặt dấu chồn". Nghe câu này, sư đại ngộ.
Sau khi đắc pháp, theo lời thỉnh của tứ chúng, sư về trụ trì và hoằng pháp ở chùa Thái Bình thuộc Phần Dương, Phần Châu, tỉnh Sơn Tây. Sư ở đây ba mươi năm không rời cổng, đức hạnh vang xa.
Có vị quan quen với sư, thỉnh sư trụ trì một ngôi chùa nhưng sư từ chối. Ông lại sai sứ giả đi thỉnh lần nữa, sứ giả nói: "Quyết thỉnh thầy cùng đi, nếu thầy không đi, tôi liều chết thôi". Sư cười bảo: "Bởi nghiệp già không thể xuống núi, giả sử đi phải có trước sau, tại sao lại quyết đồng?". Sư sửa soạn hành lí, hỏi các đệ tử có ai muốn đi theo. Vị đầu ra nói đi theo sư được, sư hỏi: "Một ngày ngươi đi được bao nhiêu dặm?". Vị này trả lời: "Năm mươi dặm". Sư nói không được. Vị thứ hai ra nói 70 dặm, sư cũng nói không được. Thị giả ra nói: "Con đi theo được, chỉ Hoà thượng đi đến đâu con đi đến đó". Sư bảo: "Ngươi đi theo được". Nói xong sư bảo: "Ta đi trước nghe!" và ngồi kiết già an nhiên thị tịch. Thị giả đứng khoanh tay cũng thị tịch theo sư. Sư thọ 78 tuổi, vua ban thụy hiệu là Vô Đức Thiền sư (zh: 無德禪師).
Sư có để lại cuốn Phần Dương Thiện Chiếu Thiền Sư Ngữ Lục.
Tham khảo
- Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
- Từ điển Thiền Tông Hán Việt. Hân Mẫn & Thông Thiền biên dịch. TP HCM 2002.
- Dumoulin, Heinrich:
- Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
- Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
|
|