Pháp Nhãn tông (zh. fǎyǎn-zōng 法眼宗, ja. hōgen-shū) là một trường phái của Thiền tông Trung Quốc, được xếp vào Ngũ gia thất tông (zh. 五家七宗). Tông này bắt nguồn từ Thiền sư Huyền Sa Sư Bị, nối pháp Tuyết Phong Nghĩa Tồn và ban đầu cũng được gọi là Huyền Sa tông. Sau đó pháp tôn của Thiền sư Huyền Sa sư Bị là Thiền sư Pháp Nhãn Văn Ích – làm cho tông phong vang dội khắp nơi và vì thế, tông này được gọi là tông Pháp Nhãn. 63 pháp tự của Pháp Nhãn hoằng hoá khắp nơi, truyền tông này qua đến cả Triều Tiên. Tông này hưng thịnh ba đời nhưng tàn lụi sau đời thứ năm. Mặc dù tông này đã thất truyền tại Trung Quốc nhưng nó vẫn còn tồn tại ở Triều Tiên.[1]
Lịch sử
Sơ khai, Thiền sư Pháp Nhãn Văn Ích đến tham học với Tổ La Hán Quế Sâm và đại ngộ (vào năm 935). Sau khi đắc pháp, Thiền sư Pháp Nhãn đến trụ trì tại Viện Thanh Lương và nỗ lực xiển dương Thiền phong của mình. Ông chủ trương lý sự viên dung, không tìm cầu bên ngoài, vạn pháp đều do tâm tạo. Đệ tử nối pháp của Pháp Nhãn rất nhiều, lên đến 63 vị, trong đó điển hình nhất là các vị như Thiên Thai Đức Thiều, Thanh Lương Thái Khâm (zh. 泰欽法燈, ?-974), Bách Trượng Đạo Hằng (zh. 百丈道恆, ?-991/992), Quy Tông Nghĩa Nhu (zh. 歸宗義柔), Báo Ân Pháp An (zh. 報恩法安)... làm cho tông phong phát triển mạnh mẽ khắp nơi và trở thành tông Pháp Nhãn. Trung tâm truyền bá chính của tông này là hai tỉnh Phúc Kiến và Triết Giang.[2]
Tông này có Thiền sư Thiên Thai Đức Thiều với chủ trương dung hợp Thiền tông và Thiên Thai tông. Còn đệ tử của Đức Thiều là Vĩnh Minh Diên Thọ thì chủ trương "Thiền-Tịnh nhất trí", Vĩnh Minh được tôn xưng là tổ thứ 6 của Tịnh Độ tông. Ngoài ra Thiền sư Thiên Đồng Tử Ngưng (zh. 天童子凝) cũng đáng chú ý, ông là người đã tranh luận với Pháp sư Tứ Minh Trí Lễ (zh. 四明知禮, 960-1028, Thiên Thai tông). Năm 1004, Pháp sư Trí Lễ soạn Thập Bất Nhị Môn Chỉ Yếu Sao trong đó cho rằng Thiên Thai tông ưu việt hơn Thiền tông và bị Tử Ngưng gửi thư đến hỏi vặn, tổng cộng hai bên tranh luận hơn 20 lần. Cuối cùng, Thái thú vùng Tứ Minh là Trực Các Lâm Công phải hoà giải và sửa đổi lại Thập Bất Nhị Môn Chỉ Yếu Sao thì mâu thuẫn hai bên mới dịu đi.[3]
Các tác phẩm đặc sắc nhất của tông này là:
Tông Môn Thập Quy Luận (zh. 宗門十規論, 1 quyển), do Thiền sư Pháp Nhãn Văn Ích soạn, khái niệm "Ngũ gia" ra đời từ đây.
Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (zh. 景德傳燈錄, 30 quyển), do Thiền sư Vĩnh An Đạo Nguyên (zh. 永安道原) biên soạn vào năm 1004, bộ sách này hệ thống hoá lại lịch sử truyền thừa của Thiền tông từ chư tổ xa xưa cho đến đời pháp tôn của Thiền sư Văn Ích.[2][3][4]
Đến cuối thời Bắc Tống, Pháp Nhãn tông dung hợp với Vân Môn tông (zh. 雲門宗) rồi sớm điêu tàn và những đặc sắc của tông phái này dần dần được môn nhân của Vân Môn tông cũng như Lâm Tế tông kế thừa.[4]
Cận đại, Thiền sư Hư Vân chủ trương khôi phục lại các tông phái đã thất truyền của Thiền tông là Quy Ngưỡng tông, Vân Môn tông, Pháp Nhãn tông. Thiền sư Hư Vân kế thừa vị tổ sư cuối cùng của tông Vân Môn được ghi lại trong lịch sử là Thiền sư Tường Phù Lương Khánh (zh. 祥符良度, đời thứ 7) làm truyền nhân đời thứ 8 và truyền pháp cho hai đệ tử là Hòa thượng Bản Tính Tịnh Huệ (zh. 本性净慧 Benxing Jinghui, 1933–2013) và Linh Ý Tịch Chiếu (zh. 灵意寂照 Lingyi Jizhao, 1926-?) tiếp nối làm truyền nhân đời thứ 9. Bài kệ truyền pháp tông Pháp Nhãn gồm 56 chữ do Thiền sư Hư Vân sáng tác là:
Lương hư bổn tịch thể vô lượng
Pháp giới thông dung quảng hàm tàng
Biến ấn xum la viên tự tại
Tắc không tình khí tổng chân thường
Duy tư thắng đức chiêu nhật nguyệt
Huệ đăng phổ chiếu động âm dương
Truyền tông Pháp Nhãn đại tương nghĩa
Quang huy địa cửu cố thiên trường.
Đặc trưng
Nói về tông Pháp Nhãn, Thiền sư Cao Phong Nguyên Diệuđời Nguyên mô tả Thiền phong của tông Pháp Nhãn là "rõ ràng trong sáng". Còn trong sách Ngũ Gia Tham Tường Yếu Lược Môn (1788) của Tôrei Enji (Đông Lĩnh Viên Từ, 1721-1791), đặc trưng bởi khuynh hướng dùng ngành nghề thế tục để nói về các tông phái Thiền, Enji ví tông Pháp Nhãn với người thương nhân (Pháp Nhãn thương nhân).[3]
Về phong cách giáo hoá thì các Thiền sư tông này có xu hướng "Tiên lợi tế", nghĩa là tùy thuận căn cơ của người học mà chân thành, khẩn thiết dìu dắt giúp họ được khai ngộ mau chóng. Tắc 7 của Bích Nham Lục là một ví dụ:
Tuệ Siêu hỏi: "Thế nào là Phật?". Pháp Nhãn đáp: "Ông là Tuệ siêu!" Ngay câu nói đó, Tuệ Siêu liền đại ngộ.[2]
Bên cạnh đó, các Thiền sư của tông này cũng rất ưa niêm đề[5] các cổ tắc, công án và trong các tác phẩm do các vị Thiền sư tông này sáng tác thường có phụ thêm phần Trứ ngữ (lời bình) cho các cổ tắc, công án.[2]