Share to: share facebook share twitter share wa share telegram print page

Osaka Naomi

Osaka Naomi
大坂 なおみ
Osaka Naomi tại Wimbledon 2017
Tên đầy đủOsaka Naomi
Quốc tịch Nhật Bản
Sinh16 tháng 10, 1997 (26 tuổi)
Osaka, Nhật Bản
Chiều cao1,78 m (5 ft 10 in)
Tay thuậnTay phải (cú trái 2 tay)
Huấn luyện viênWim Fissette (2020–)
Tiền thưởng$13,492,479
Đánh đơn
Thắng/Thua251–139 (64.36%)
Số danh hiệu7
Thứ hạng cao nhấtNo. 1 (28 tháng 1 năm 2019)
Thứ hạng hiện tạiNo. 12 (4 tháng 10 năm 2021) )
Thành tích đánh đơn Gland Slam
Úc Mở rộngVĐ (2019,2021)
Pháp mở rộngV3 (2016, 2018, 2019)
WimbledonV3 (2017, 2018)
Mỹ Mở rộngVĐ (2018, 2020)
Các giải khác
Đánh đôi
Thắng/Thua2–14 (12.5%)
Số danh hiệu0
Thứ hạng cao nhất324 (3 tháng 4 năm 2017)
Thành tích đánh đôi Gland Slam
Úc Mở rộngV1 (2017)
Pháp Mở rộngV2 (2016)
WimbledonV1 (2017)
Mỹ Mở rộngV1 (2016)

Ōsaka Naomi (Nhật: 大坂 (おおさか) なおみ? sinh ngày 16 tháng 10 năm 1997[1]) là một vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Nhật Bản.[2] Cô từng xếp hạng số 1 thế giới của WTA ở nội dung đơn vào ngày 26 tháng 1 năm 2019 sau khi vô địch Úc Mở rộng và là tay vợt châu Á đầu tiên đứng số 1 thế giới.

Sinh ra ở Nhật Bản, có bố là người Haiti và mẹ là người Nhật, Osaka sống ở Hoa Kỳ từ khi cô bốn tuổi. Cô nổi tiếng ở tuổi mười sáu khi đánh bại cựu vô địch US Open Samantha Stosur trong trận ra mắt WTA Tour tại Stanford Classic 2014. Hai năm sau, cô lọt vào trận chung kết WTA đầu tiên của mình tại Pan Pacific Open 2016 ở Nhật Bản để lọt vào top 50 của bảng xếp hạng WTA. Osaka tạo ra bước đột phá của quần vợt nữ thế giới năm 2018, khi cô giành được danh hiệu WTA đầu tiên của mình tại Indian Wells. Vào tháng 9, cô vô địch Mỹ mở rộng, đánh bại nhà vô địch Grand Slam 23 lần Serena Williams trong trận chung kết để trở thành tay vợt Nhật Bản đầu tiên giành chiến thắng trong một giải đấu đơn Grand Slam. Năm sau, cô trở thành vận động viên quần vợt số 1 thế giới đầu tiên từ Nhật Bản với chiến thắng tại giải Úc mở rộng 2019.

Tiểu sử cá nhân

Osaka Naomi sinh ra ở Osaka, Nhật Bản, bố là Leonard San François người Haiti và mẹ là Osaka Tamaki người Nhật.[1] Cô có một chị gái, Mari, cũng là một tay vợt chuyên nghiệp. Hai cô con gái đều được lấy họ mẹ là Osaka vì những lí do về luật hôn nhân ở Nhật Bản. Ba mẹ Osaka gặp khi bố cô tham quan Hokkaido khi còn là sinh viên ở New York.

Lúc lên 3 tuổi, Osaka chuyển từ Nhật Bản đến Valley Stream, New York ở Long Island, Hoa Kỳ để sống với ông bà nội. Bố của Osaka lấy được cảm hứng dạy hai cô con gái của mình chơi quần vợt khi xem hai chị em nhà Williams thi đấu tại giải Pháp mở rộng 1999. Dù bản thân có ít kinh nghiệm chơi quần vợt, ông tìm cách học theo phương pháp mà Richard Williams đã huấn luyện cho hai cô con gái trở thành những tay vợt vĩ đại nhất thời đại. Ông bắt đầu huấn luyện cho Mari và Naomi khi họ định cư ở Hoa Kỳ. Năm 2006, gia đình Osaka chuyển về Florida, khi Osaka khoảng 8 hoặc 9 tuổi để họ có nhiều cơ hội tập luyện hơn. Naomi từng tập luyện ở sân công cộng Pembroke Pines. Khi cô 15 tuổi, cô bắt đầu làm việc với Patrick Tauma ở học viện ISP. Cô tốt nghiệp trường tiểu học Elmont Alden Terrace và trường trung học phổ thông Broward Virtual. Năm 2014, cô chuyển về học viện Harold Solomon (Học viện Tennis SBT Florida). Sau này cô tập luyện ở học viện quần vợt ProWorld.

Mặc dù Osaka lớn lên ở Hoa Kỳ, bố mẹ cô vẫn quyết định cho hai chị em đại diện Nhật Bản khi thi đấu. Họ nói rằng: "Chúng tôi quyết định cho Osaka đại diện Nhật Bản từ khi con bé còn nhỏ. Con bé được sinh ra ở Osaka và được nuôi dạy trong một môi trường văn hóa Nhật và Haiti. Naomi và chị gái Mari luôn cảm thấy chúng là người Nhật, và đây là lí do duy nhất của chúng tôi. Quyết định này không phải là vì tài chánh hay bị sự ảnh hương của một hiệp hội quốc gia nào." Quyết định này có lẽ một phần bị ảnh hưởng bởi sự ít quan tâm của Hiệp Hội Quần Vợt Hoa Kỳ (USTA) khi Osaka còn là một tay vợt nhỏ. USTA sau này có mời Osaka thi đấu ở trung tâm huấn luyện quốc gia ở Boca Raton, Florida, khi Osaka 16 tuổi, nhưng cô từ chối.

Tiếng mẹ đẻ của cô là tiếng Anh. Sau khi chọn quốc tịch Nhật Bản, cô cũng bắt đầu học tiếng Nhật.

Sự nghiệp quần vợt

2014-2017: Đầu sự nghiệp

Vào tháng 7 năm 2014, Osaka lần đầu tiên tham gia giải đấu WTA tại Stanford và vào được vòng nhì.

Tại Australian Open, Osaka lần đầu tiên thắng các vòng loại để được vào đấu tại một giải Grand Slam vào năm 2016. Với chiến thắng trước Donna VekićElina Svitolina, cô vào được ngay vòng thứ ba. Tại nội dung đơn của Giải Pháp mở rộng, nhờ thứ hạng cao cô không cần phải đấu vòng loại, và cũng lặp lại thành tích tốt ở đây. Vào tháng 10 năm 2016, cô vào được vòng chung kết Giải WTA Tokyo (thua Caroline Wozniacki 2 set liên tiếp) và lên được vị trí thứ 40 trong bảng xếp hạng WTA.

2018: Vô địch Mỹ mở rộng và Indiana Wells, xếp thứ 4 thế giới

Năm 2018, cô bắt đầu leo lên thứ hạng 19 trước ngày 5 tháng 9 năm 2018. Từ đầu năm, cô đã được Aleksander Bajin huấn luyện. Vào tháng 5 năm 2018, cô đã được đào tạo tại Học viện quần vợt Evert ở Boca Raton, Florida, trong khi chơi cho Nhật Bản.

Sau chiến thắng trước Kristína Kučová và hạt giống thứ 16 Elena Vesnina, Osaka đã đạt đến vòng thứ tư của một grand slam lần đầu tiên khi cô đánh bại Ashleigh Barty ở vòng thứ bố của giải Úc mở rộng năm 2018. Cô bị đánh bại bởi Simona Halep ở vòng thứ tư.

Cạnh tranh như một ẩn số trong giải vô địch quần vợt Dubai, cô đã đánh bại Kristina Mladenovic và Anett Kontaveit trước khi thua Elina Svitolina ở tứ kết.

Tại BNP Paribas Open ở Indian Wells, cô đã đánh bại cựu thế giới số 1 Maria Sharapova ở vòng đầu tiên, tiếp tục phong độ tốt của mình với chiến thắng liên tiếp hạt giống số 31 Agnieszka Radwańska và Sachia Vickery tiến tới vòng thứ tư, nơi cô vượt qua Maria Sakkari, và Karolína Plíšková tiến tới trận bán kết đầu tiên của mình. Sau đó, cô đánh bại thế giới số 1 Simona Halep để tiến tới trận chung kết lớn nhất trong sự nghiệp của mình. Osaka thắng BNP Paribas Open bằng cách đánh bại hạt giống số 20 của Nga Daria Kasatkina.

Vào tháng 3 năm 2018, Osaka cuối cùng đã giành được một trận thắng thần tượng của cô, cựu thế giới số 1 Serena Williams, ở vòng đầu tiên của Miami Open. Sau đó cô thua ở vòng thứ hai bởi hạt giống thứ tư Elina Svitolina. Osaka tiếp tục phong độ năm 2017 tại French Open, đạt đến vòng thứ bố trước khi thua hạt giống thứ 13 Madison Keys.

Trong mùa sân cỏ, cô đã đến bán kết của Nottingham Open, nơi cô đã thua hạt giống Ashleigh Barty. Cô đã được xếp hạng hạt giống thứ mười tám tại Wimbledon, và đạt đến vòng thứ ba, nơi cô đã bị đánh bại bởi hạt giống thứ mười một và cuối cùng vô địch Angelique Kerber. Sau một chuỗi thua sớm ở Washington, Rogers Cup, và Cincinnati, Osaka đã trở lại tại US Open, đánh bại Laura Siegemund và Julia Glushko. Sau đó cô ghi 6-0, 6-0 trước Aliaksandra Sasnovich, chiến thắng tuyệt vời nhất của cô. Trong vòng thứ tư, cô đã vượt qua hạt giống thứ 26 Aryna Sabalenka trong bố set. Tại vòng tứ kết, Osaka đã đánh bại Lesia Tsurenko chỉ trong 58 phút. Với chiến thắng này, cô đã có trận bán kết đầu tiên của mình. Trong trận bán kết, cô đã đánh bại Madison Keys, trở thành người phụ nữ Nhật Bản đầu tiên vào chơi trận chung kết slam, nơi cô sẽ đối mặt với Serena Williams cho danh hiệu này.

2019: Vô địch Úc mở rộng, xếp thứ 1 thế giới

Osaka đã được xếp làm hạt giống thứ tư tại Úc mở rộng. Cô đã đánh bại Magda Linette và Tamara Zianšek để lọt vào vòng thứ ba, nơi cô phải đối mặt với hạt giống số 28 Hsieh Su-wei. Sau khi thua set đầu tiên, cô đã thắng 10 trong số 12 trận gần đây để giành chiến thắng sau bố set. Ở vòng thứ tư, cô đánh bại hạt giống số 13 Anastasija Sevastova trong bố set để vào tứ kết đầu tiên tại Melbourne, nơi cô đánh bại hạt giống thứ sáu Elina Svitolina. Chiến thắng bố set trước hạt giống số 7 Karolína Plíšková đã chứng kiến ​​Osaka tiến tới trận chung kết Grand Slam thứ hai liên tiếp, nơi cô đánh bại hạt giống số 8 Petra Kvitová trong bố set để giành danh hiệu thứ hai liên tiếp. Với chiến thắng này, Osaka đã trở thành tay vợt đầu tiên giành được hai danh hiệu Grand Slam liên tiếp kể từ Serena Williams vào năm 2015. Kể từ ngày 28 tháng 1 năm 2019, cô là tay vợt số 1 thế giới của WTA và là tay vợt châu Á đầu tiên làm được điều đó. Sau giải đấu thành công, cô chia tay với huấn luyện viên Sascha Bajin.

Osaka chật vật sau giải Úc mở rộng. Cô thua ở vòng bốn và vòng bố tại hai giải đấu Premier Mandatory vào tháng 3, Indian WellsMiami Open. Sau khi bắt đầu mùa giải sân đất nện với trận bán kết tại Stuttgart Open nơi cô rút lui vì chấn thương bụng, kết quả tốt nhất của cô là hai trận tứ kết tại Madrid Open và Italia Open. Cô cũng rút lui sau đó vì chấn thương ở tay phải. Tại Pháp mở rộng, Osaka thua Kateřina Siniaková ở vòng ba. Trong mùa giải trên sân cỏ, Osaka thua ở vòng đầu trước Yulia Putintseva ở cả hai giải đấu mà cô tham gia, bao gồm cả vòng đầu tiên tại Wimbledon. Kết quả là cô đã mất thứ hạng số 1 thế giới vào tay Ashleigh Barty.

Trước US Open, Osaka lọt vào tứ kết tại hai giải đấu Premier 5 vào tháng 8, Canada Open và Cincinnati Open, nơi cô bị đánh bại bởi Serena WilliamsSofia Kenin. Những màn trình diễn này đã giúp cô lấy lại thứ hạng số 1 để được xếp hạt giống số 1 tại US Open. Tuy nhiên, hành trình bảo vệ danh hiệu của cô kết thúc ở vòng bốn trước Belinda Bencic, người đã đánh bại cô lần thứ bố trong năm. Sau đó, cô rơi xuống vị trí thứ 4 trên thế giới. Sau giải đấu, Osaka đưa cha cô trở lại làm huấn luyện viên. Sự thay đổi này đã cho thấy hiệu quả ngay lập tức, vì Osaka đã vô địch hai giải đấu tiếp theo của cô. Đầu tiên, cô giành chiến thắng tại Premier 5 Pan Pacific Open tại quê nhà Osaka, đánh bại Anastasia Pavlyuchenkova trong trận chung kết. Hai tuần sau, cô lên ngôi vô địch tại Trung Quốc mở rộng. Trong giải đấu, cô đã đánh bại đương kim vô địch US Open Bianca Andreescu ở tứ kết và số 1 thế giới Ashleigh Barty trong trận chung kết. Những kết quả này đã giúp cô lên vị trí thứ 3 trên thế giới. Vào cuối năm, Osaka đủ điều kiện than dự WTA Final năm thứ hai liên tiếp. Tuy nhiên, sau khi đánh bại Petra Kvitová trong trận đấu đầu tiên, cô đã rút lui vì chấn thương.

2020

Bắt đầu mùa giải 2020 của mình tại Brisbane, Osaka đánh bại Maria Sakkari, Sofia KeninKiki Bertens, trước khi thua Karolína Plíšková. Tại Úc Mở rộng, Osaka đánh bại Marie Bouzková và Zheng Saisai, trước khi bị Coco Gauff đánh bại ở vòng ba.

Thống kê sự nghiệp

Chung kết Grand Slam

Kết quả Năm Giải đấu Mặt sân Đối thủ Tỷ số
Vô địch 2018 Mỹ Mở rộng Cứng Hoa Kỳ Serena Williams 6–2, 6–4
Vô địch 2019 Úc Mở rộng Cứng Cộng hòa Séc Petra Kvitová 7–6(7–2), 5–7, 6–4

Đơn: 1 (0–1)

Vô địch – Ghi chú
Giải đấu Grand Slam (0–0)
WTA Tour Championships (0–0)
Premier Mandatory & Premier 5 (0–0)
Premier (0–1)
Quốc tế (0–0)
Danh hiệu theo mặt sân
Cứng (0–1)
Cỏ (0–0)
Đất nện (0–0)
Thảm (0–0)
Kết quả TT Ngày Giải đấu Thể loại Mặt sân Đối thủ Tỷ số
Á quân 1. 25 tháng 9 năm 2016 Toray Pan Pacific Open, Tokyo, Nhật Bản Premier Cứng Đan Mạch Caroline Wozniacki 5–7, 3–6

WTA 125 series

Đơn: 1 (1 Á quân)

Kết quả TT Ngày Giải đấu Mặt sân Đối thủ Tỷ số
Á quân 1. 15 Tháng 11 năm 2015 Hua Hin Championships, Hua Hin, Thái Lan Cứng Kazakhstan Yaroslava Shvedova 4–6, 7–6(10–8), 4–6

Chung kết ITF

Đơn: 4 (0–4)

Ghi chủ
$100,000 tournaments
$75,000 tournaments
$50,000 tournaments
$25,000 tournaments
$15,000 tournaments
$10,000 tournaments
Finals by surface
Cứng (0–3)
Đất nện (0–0)
Cỏ (0–1)
Thảm (0–0)
Kết quả TT Ngày Giải đấu Mặt sân Đối thủ Tỷ số
Á quân 1. 2 tháng 6 năm 2013 El Paso, Hoa Kỳ Cứng Hoa Kỳ Sanaz Marand 4–6, 4–6
Á quân 2. 9 tháng 3 năm 2014 Irapuato, Mexico Cứng Hà Lan Indy de Vroome 6–3, 4–6, 1–6
Á quân 3. 3 tháng 5 năm 2015 Gifu, Nhật Bản Cứng Trung Quốc Zheng Saisai 6–3, 5–7, 4–6
Á quân 4. 14 tháng 6 năm 2015 Surbiton, Vương quốc Anh Cỏ Nga Vitalia Diatchenko 6–7(5–7), 0–6

Chú thích

  1. ^ a b “Naomi Osaka Biography”. WTA. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2014.
  2. ^ “GETTING TO KNOW... NAOMI OSAKA”. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2015.

Liên kết ngoài

Giải thưởng
Tiền nhiệm:
Nga Daria Gavrilova
WTA Newcomer of the Year
2016
Kế nhiệm:
Đang giữ danh hiệu

Read other articles:

Jo & Jay Detektif Jaman NowGenre Drama Roman Komedi PembuatAmanah Surga ProductionsDitulis olehAufa QianzoCeritaAufa QianzoSutradaraAi ManafPemeran Ricky Harun Andrew Andika Melody Prima Fita Anggriani Indah Permatasari Abhie Cancer Joy Octaviano Adhitya Alkatiri Ananda George Rudy Kawilarang Ricky Cuaca Kia Poetri Keira Shabira Penggubah lagu temaThe ChangcutersLagu pembukaGila Gilaan — The ChangcutersLagu penutupGila Gilaan — The ChangcutersPenata musikBobby AbboNegara asalIndone…

Place in Gauteng, South Africa Place in Gauteng, South AfricaSpringsDowntown Springs SkylineSpringsShow map of GautengSpringsShow map of South AfricaCoordinates: 26°15′17″S 28°26′34″E / 26.25472°S 28.44278°E / -26.25472; 28.44278CountrySouth AfricaProvinceGautengMunicipalityEkurhuleniEstablished1904Area[1] • Total183.50 km2 (70.85 sq mi)Elevation1,627 m (5,338 ft)Population (2011)[1] • Total…

American avant-garde composer Not to be confused with Lamont Young. La Monte YoungYoung in c. 1961Born (1935-10-14) October 14, 1935 (age 88)Bern, Idaho, U.S.OccupationsComposermusicianperformance artistSpouse Marian Zazeela ​(m. 1963)​Signature La Monte Thornton Young (born October 14, 1935) is an American composer, musician, and performance artist recognized as one of the first American minimalist composers and a central figure in Fluxus and post-war ava…

Rogaliński Hrabia – polski herb hrabiowski, odmiana herbu Łodzia, nadany w SRI. Opis herbu Opis zgodnie z klasycznymi regułami blazonowania: W polu czerwonym łódź złota. Nad tarczą korona hrabiowska, nad którą pięć hełmów z klejnotami: I - dwugłowy orzeł cesarski czarny; II - między rogami jelenimi naturalnymi pół niedźwiedzia wspiętego czarnego, w lewo, z różą czerwoną w łapie; III jastrząb czarny z podkową złotą, między ocelami której takiż krzyż; IV - na pi…

A Frota da Companhia Paulista de Estradas de Ferro nessa lista abaixo apresenta as locomotivas Diesel-Elétrica e Elétrica pertencentes a Companhia Paulista de Estradas de Ferro em 1968.[1][2] Parque de tração da Companhia Paulista de Estradas de Ferro (1921 - 1968) Locomotivas elétricas Modelo Fabricante Tração 2ª Numeração original Rodagem Ano de produção Total Potência Tipo de serviço Imagem GE 2-B+B-2 GE - EUA Elétrica 300 - 303 200 - 203 (anterior) 2-B+B-2 1921 a 1922 4 1428 h…

Ne doit pas être confondu avec Nouveau Centre droit. Pour les articles homonymes, voir NC et LC. Les Centristes Logotype officiel. Présentation Président Hervé Morin Fondation 29 mai 2007(Nouveau Centre)11 décembre 2016(Les Centristes) Scission de UDF (2007)UDI (2017) Siège 88, rue de Varenne, Paris 7e Vice-présidents Catherine Morin-DesaillyJean-Léonce DupontYvan LachaudRudy Salles Trésorier Charles de Courson Positionnement Centre à centre droit[1],[2],[3] Idéologie Social-libérali…

نظرة المستثمرين هو الموقف العام السائد عند المستثمرين من تطور الأسعار المتوقع في السوق.[1] هذا الموقف هو تراكم مجموعة متنوعة من العوامل الأساسية والتقنية ، بما في ذلك تاريخ الأسعار والتقارير الاقتصادية والعوامل الموسمية والأحداث الداخلية والخارجية. أظهرت نتائج إحدى ال…

この存命人物の記事には検証可能な出典が不足しています。信頼できる情報源の提供に協力をお願いします。存命人物に関する出典の無い、もしくは不完全な情報に基づいた論争の材料、特に潜在的に中傷・誹謗・名誉毀損あるいは有害となるものはすぐに除去する必要があります。出典検索?: リッチモンド・ボアキエ – ニュース · 書籍 · スカラー…

2000 police killing in Prince Georges County, Virginia, United States Prince JonesUndated photo of JonesDateSeptember 1, 2000 (2000-09-01)LocationFairfax County, Virginia, U.S.TypePolice shootingParticipantsJones and police officer Carlton JonesDeathsPrince Jones, 25 Prince Carmen Rocky Jones Jr. (1975–September 1, 2000) was an African-American man killed by a police officer in September 2000 in Virginia.[1] Author Ta-Nehisi Coates attended Jones' memorial service,[2…

Smash Arriba: Henrik Liebgott y Julio Matito.Abajo: Antonio Rodríguez y Gualberto García.Datos generalesOrigen Sevilla, España Información artísticaGénero(s) Rock psicodélico, blues rock, rock progresivoPeríodo de actividad 1968 – 1973Discográfica(s) PolyGram Philips BocaccioArtistas relacionados Gong, Nuevos Tiempos, Green PianoMiembros Gualberto GarcíaJulio MatitoAntonio RodríguezHenrik LiebgottManuel Molina [editar datos en Wikidata] Smash fue un grupo españo…

1989 novel by Orson Scott Card Prentice Alvin Cover of first edition (hardcover)AuthorOrson Scott CardCover artistDennis NolanCountryUnited StatesLanguageEnglishSeriesThe Tales of Alvin MakerGenreFantasy, alternate historyPublisherTor BooksPublication date1989Media typePrint (Hardcover & Paperback)Pages342AwardLocus Award for Best Fantasy Novel (1990)ISBN0-312-93141-7OCLC18624985Dewey Decimal813/.54 19LC ClassPS3553.A655 P74 1989Preceded byRed Prophet Followed b…

British comic book writer and novelist Dan AbnettAbnett at the Midtown Comics booth at the New York Comic Con in Manhattan,10 October 2010BornDaniel P. Abnett (1965-10-12) 12 October 1965 (age 58)Rochdale, Lancashire, EnglandOccupationComic book writer, novelistEducationSt Edmund Hall, OxfordPeriod1988–presentGenreComic book, science fictionNotable awardsNational Comics Award for Best Writer in Comics Today (2003)[1]Websitetheprimaryclone.blogspot.com Daniel P. Abnett (/ˈæbnɪt/…

It has been suggested that this article should be split into multiple articles. (discuss) (November 2022) This article includes a list of general references, but it lacks sufficient corresponding inline citations. Please help to improve this article by introducing more precise citations. (September 2016) (Learn how and when to remove this template message) This is a list of minority governors and lieutenant state governors in the United States. In the United States, an ethnic minority is anyone …

HMCS Margaret redirects here. Not to be confused with HMAS Marguerite. As HMCS Margaret, armed with two 6-pounder guns forward History Canada NameMargaret OwnerDepartment of Marine and Fisheries (Canada) OperatorCustoms and Preventative Service Canada (1914–1915, 1919–1932) BuilderThornycroft, Woolston Works Launched1914 Acquired1914 In service1914 Out of service1915 In service1919 Out of service1932 Stricken1932 FateSold for private use Canada NameMargaret Acquired1915 Commissioned1915 Deco…

Australian rugby league referee For other uses, see Tony Archer. Tony ArcherPersonal informationFull nameAnthony ArcherBorn1969 (age 53–54)AustraliaRefereeing information Years Competition Apps 1999–12 NRL 319 2006 City vs Country Origin 1 2006–10 International 9 2008–12 State of Origin 13 Source: [1][2] Tony Archer is an Australian former rugby league referee. He presided over 319 National Rugby League games as referee between 1999 and 2012 as w…

Ugly Betty Artikel ini mengenai Daftar karakter yang tampil di serial komedi-drama Amerika yang tayang di ABC, Ugly Betty. Karakter Utama Nama Diperankan oleh Profesi Biografi Beatriz Betty U. Suarez America Ferrera Penyaji Spesialis / Weekend lembut Malam Manager di Soft Curve ConesPersonal asisten untuk Daniel MeadePersonal asisten untuk Sofia ReyesPersonal asisten untuk Wilhelmina SlaterEditor terbaru di Mode Direktur asosiasi dari ModeCo-runner dari sebuah majalah London Bertujuan untuk menj…

Tennis tournamentTrophée des Alpilles 2016 Trophée des AlpillesATP Challenger TourEvent nameSt. RemyLocationSaint-Rémy-de-Provence, FranceVenueTennis Club deSaint-Rémy-de-ProvenceCategoryATP Challenger TourSurfaceHardDraw32S/32Q/16DPrize money€42,500WebsiteWebsite 2006 Australian Open runner-up Marcos Baghdatis was the men's singles champion in 2009. The Trophée des Alpilles is a professional tennis tournament played on outdoor hard courts. It is currently part of the ATP Challe…

هوغو وولف (بالألمانية: Hugo Wolf)‏  معلومات شخصية اسم الولادة (بالإنجليزية: Hugo Philipp Jacob Wolf)‏  الميلاد 13 مارس 1860(1860-03-13)سلوفينج غرادتس الوفاة 22 فبراير 1903 (42 سنة)فيينا سبب الوفاة احتشاء الدماغ  مكان الدفن مقبرة فيينا المركزية  مواطنة الإمبراطورية النمساوية المجرية الإمبراط…

Burj Al Masa is a planned 93 story, 432m supertall skyscraper In Jeddah, Saudi Arabia Burj Almasaبرج الماسةFormer namesThe DiamondDiamond TowerGeneral informationStatusUnder construction[1]LocationJeddah, Saudi ArabiaCoordinates21°38′49″N 39°06′13″E / 21.64694°N 39.10361°E / 21.64694; 39.10361Groundbreaking9 January 2010Construction started9 January 2011Estimated completion2027Cost$1BillionHeightArchitectural432 m (1,417 ft)[1 …

Ini adalah nama Mandailing, marganya adalah Lubis. Todung Mulya LubisDuta Besar Indonesia untuk Norwegia ke-11Masa jabatan20 Februari 2018 – 31 Januari 2023PresidenJoko WidodoPendahuluYuwono A. PutrantoPenggantiTeuku Faizasyah Informasi pribadiLahir4 Juli 1949 (umur 74)Muara Botung, Mandailing Natal, Sumatera Utara, Indonesia[1]PendidikanUniversitas IndonesiaUniversity of California, BerkeleyHarvard Law SchoolSunting kotak info • L • B Prof. Dr. Todung Mulya…

Kembali kehalaman sebelumnya

Lokasi Pengunjung: 3.138.34.66