Việc chế tạo lớp tàu khu trục Fubuki tiên tiến được chấp thuận vào năm tài chính 1923 như một phần của chương trình có tham vọng cung cấp cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản một ưu thế về chất lượng so với những tàu chiến hiện đại nhất của thế giới.[3] Khả năng thể hiện của lớp Fubuki là một bước nhảy vọt so với các thiết kế tàu khu trục trước đó, nên chúng được gọi là các "tàu khu trục đặc biệt" (tiếng Nhật: 特型 - Tokugata). Kích thước lớn, động cơ mạnh mẽ, tốc độ cao, bán kính hoạt động lớn và vũ khí trang bị mạnh chưa từng có khiến cho các tàu khu trục này có được hỏa lực tương đương nhiều tàu tuần dương hạng nhẹ của hải quân các nước khác.[4]Isonami được chế tạo tại xưởng đóng tàu của hãng Uraga Dock Company, được đặt lườn vào ngày 19 tháng 10 năm 1926. Nó được hạ thủy vào ngày 24 tháng 11 năm 1927 và đưa ra hoạt động vào ngày 30 tháng 6 năm 1928.[5] Nguyên được dự định mang số hiệu đơn giản là "Tàu khu trục số 43", nó được hoàn tất dưới tên gọi Isonami.
Vào ngày 4-5 tháng 6 năm 1942, Isonami tham gia trận Midway trong thành phần lực lượng chính của Đô đốc Yamamoto Isoroku. Trên đường quay trở về từ trận chiến, nó bị hư hại do va chạm với tàu khu trục chị em Uranami và phải cố gắng quay trở về Xưởng hải quân Yokosuka để sửa chữa, và công việc này chỉ hoàn tất vào cuối tháng 7 năm. Từ tháng 8 đến tháng 9, Isonami được phân công các nhiệm vụ huấn luyện cùng với các tàu sân bayJunyō và Hiyō trong vùng biển Nội địa Nhật Bản, và hộ tống những chiếc này đi đến Truk vào đầu tháng 10. Nó được phân công tuần tra tại khu vực này từ tháng 10, và thực hiện nhiều nhiệm vụ Tốc hành Tokyo, những chuyến đi vận chuyển tốc độ cao, đến nhiều địa điểm trong khu vực quần đảo Solomon.[6]
Vào ngày 9 tháng 4 năm 1943, khi hộ tống một đoàn tàu vận tải từ Surabaya đến đảo Ambon, trong khi đang cứu vớt những người còn sống sót từ chiếc tàu vận tải Penang Maru bị trúng ngư lôi, bản thân nó trúng phải ngư lôi phóng từ tàu ngầm Mỹ Tautog, và bị chìm cách 65 km (35 hải lý) về phía Đông Nam đảo Wangiwangi, ở tọa độ 5°26′N123°4′Đ / 5,433°N 123,067°Đ / -5.433; 123.067. Trong số thủy thủ đoàn của nó, bảy người đã thiệt mạng và chín người khác bị thương.[8]
^Các đặc tính lấy từ: Fitzsimons, Bernard, ed. Illustrated Encyclopedia of 20th Century Weapons and Warfare (London: Phoebus, 1978), Volume 10, trang 1040-1041, "Fubuki".
^ abNishidah, Hiroshi (2002). “Fubuki class 1st class destroyers”. Materials of the Imperial Japanese Navy. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2010.
Nishidah, Hiroshi (2002). “Fubuki class destroyers”. Materials of the Imperial Japanese Navy. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2010.