Hiệp ước bất bình đẳng là tên Trung văn của các điều ước Nhà Thanh ký kết với các nước phương Tây, Nga và Đại Nhật Bản trong thế kỷ 19 và 20, tất cả đều bị áp đặt sau khi Trung Quốc thua trận trong quân sự hoặc bị đế quốc nước ngoài đe dọa.
Thập niên 20, chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc và phản đế nổi dậy, Quốc dân Đảng lẫn Cộng sản Đảng dùng khái niệm dị đẳng mà bày tỏ trải nghiệm mất chủ quyền giữa năm 1840 và 1950, sau gắn liền với "bách niên sỉ nhục" của Trung Quốc, đặc biệt các tô giới cho ngoại quốc thuê và mất tự trị thuế quan bởi các cảng điều ước.
Nhật Bản và Triều Tiên cũng sử dụng khái niệm để nói về vài hiệp ước làm mất chủ quyền ở vài mức độ.
Trung Quốc
Ở Trung Quốc, "hiệp ước bất bình đẳng" dùng lần đầu tiên đầu thập niên 20. Giáo sư Trung sử đương đại hiện đại Vương Đống (王栋) nhận định "tuy từ lâu cụm từ đã dùng rộng rãi, nhưng vẫn thiếu định nghĩa sáng sủa rõ ràng" và "không có sự đồng ý về số hiệp ước Trung Quốc ký với nước ngoài nên coi là 'bất bình đẳng'."[1] Sử gia Từ Trung Ước giải thích Trung Quốc coi các hiệp ước là bất bình đẳng "bởi không được thương lượng dựa trên sự bình đẳng, bị áp đặt lên Trung Quốc sau các cuộc chiến, và vi phạm chủ quyền... biến Trung Quốc thành nước bán thuộc địa".[2] Sử gia Elizabeth Cobbs phản hồi viết, "Trớ trêu thay, các hiệp ước như vậy được kí kết cũng do Trung Quốc luôn ngần ngại khi cân nhắc bất kỳ điều ước nào, xem mọi nước như bé hèn thấp kém. Trung Quốc không muốn được bình đẳng."[3]
Trong nhiều trường hợp, Trung Quốc buộc phải trả khoản bồi thường chiến tranh lớn, khai quan mở cảng cho ngoại thương, nhượng lại hay cho thuê lãnh thổ (như Ngoại Đông Bắc và Ngoại Tây Bắc (bao gồm luôn Zhetysu) cho Nga, Hương Cảng và Uy Hải Vệ cho Anh, Quảng Châu Loan cho Pháp, Quan Đông Châu và Đài Loan cho Nhật, Giao Châu Loan cho Đức và các tô giới ở Thiên Tân, Sa Diện, Hán Khẩu, Thượng Hải...), cũng như nhượng lại chủ quyền cho nước gây ảnh hưởng sau đe dọa quân sự. Thảo ước "bất bình đẳng" được ghi nhận sớm nhất là Thảo ước Xuyên Tị trong Chiến tranh Nha phiến lần đầu; hiệp ước "bất bình đẳng" đầu tiên giữa Trung Quốc và Anh là Hiệp ước Nam Kinh năm 1842. Sau khi Nhà Thanh thua trận, hiệp ước với Anh khai mở năm cảng cho nước ngoài buôn bán và cho phép các giáo sĩ truyền đạo lưu trú ở Trung Quốc. Ngoài ra, cư dân nước ngoài ở các thành phổ cảng không bị pháp chế Trung Quốc chi phối mà chịu sự quản lý của lãnh sự quán nước mình, gọi là pháp quyền trị ngoại.[4] Theo các hiệp ước, Anh và Hoa Kỳ thành lập Tòa án tối cao Anh cho Trung Nhật và Tòa án Mỹ cho Trung Quốc ở Thượng Hải.
Trung Quốc oán giận
Sau Thế chiến thứ nhất, tinh thần yêu nước ở Trung Quốc tập trung vào các điều ước, công nhận là "bất bình đẳng". Quốc dân Đảng lẫn Cộng sản Đảng cạnh tranh thuyết phục dân chúng phương pháp của họ sẽ có hiệu quả hơn.[4] Đức buộc phải chấm dứt quyền lợi, Liên Xô từ bỏ, Hoa Kỳ tổ chức Hội nghị Washington để thương lượng lại. Sau khi Tưởng Giới Thạch tuyên bố thành lập chính phủ mới năm 1927, các nước phương Tây thừa nhận ngoại giao đã khiến Nhật Bản lo lắng.[5] Chính phủ mới công bố Trung Quốc đã bị bóc lột trong hàng chục năm theo các hiệp ước bất đình đẳng, nay đã hết thời, yêu cầu thương lượng lại tất cả trên địa vị bình đẳng.[6] Tuy nhiên, phải hoãn lại bởi Nhật Bản đang bành trướng ở Trung Quốc.
Hầu hết các hiệp ước coi là bất bình đẳng bị bãi bỏ trong Chiến tranh Nhật–Trung, bắt đầu năm 1937, cấu thành một phần Thế chiến thứ hai. Quốc hội Mỹ chấm dứt pháp quyền ngoại trị tháng 12 năm 1943. Có vài ngoại lệ: hiệp ước về Hồng Kông duy trì hiệu lực cho đến cuộc chuyển giao năm 1997; năm 1969, Trung Quốc buộc phải tái khẳng định Điều ước Ái Hồn năm 1858 để cải thiện quan hệ Trung-Liên sau xung đột biên giới.
Nhật Bản và Triều Tiên
Khi hạm trưởng Mỹ Matthew Perry đến Nhật năm 1854, Hiệp ước Kanagawa được ký kết, nhưng không quan trọng lắm. Trọng đại hơn là Hiệp ước Harris năm 1858 do phái viên Townsend Harris thương lượng.[7]
Hiệp ước bất bình đẳng đầu tiên của Triều Tiên không phải với phương Tây, mà với Nhật Bản. Năm 1875, sự kiện Đảo Giang Hoa xảy ra, Nhật phái hạm trưởng Inoue Yoshika cùng chiến hạm Un'yō đi tỏ quân lực với Triều Tiên, buộc Triều Tiên phải ký Điều ước Nhật–Triều năm 1876 khai quan mở cảng cho Nhật.[8]
Các hiệp ước bất bình đẳng chấm dứt ở các thời điểm khác nhau cho hai nước. Chiến tranh Nhật–Thanh năm 1894-95 thuyết phục phương Tây rằng các điều ước không còn có thể thi hành với Nhật. Các hiệp ước của Triều Tiên với các nước châu Âu hầu hết mất hiệu lực năm 1910, khi bị Nhật Bản sát nhập.[9]
^Wang, Dong. (2005). China's Unequal Treaties: Narrating National History. Lanham, Maryland: Lexington Books. pp. 1–2. ISBN9780739112083.
^Hsu, Immanuel C. Y. (1970). The Rise of Modern China. New York: Oxford University Press. p. 239. ISBN0195012402.
^Cobbs, Elizabeth (2013). American Umpire. Cambridge, Massachusetts: Harvard University Press. p. 111. ISBN9780674055476.
^ abDong Wang, China's Unequal Treaties: Narrating National History (Lanham, Md.: Lexington Books, 2005).
^Akira Iriye, After Imperialism: The Search for a New Order in the Far East, 1921–1931 (Cambridge: Harvard University Press, 1965; Reprinted: Chicago: Imprint Publications, 1990), passim.
^“CHINA: Nationalist Notes”. TIME. ngày 25 tháng 6 năm 1928. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2011.
^Korean Mission, p. 29., tr. 29, tại Google Books; excerpt, "Treaty and Diplomatic Relations Between the United States and Korea. Treaty of Friendship, Commerce, and Navigation dated ngày 22 tháng 5 năm 1882."
^Korean Mission, p. 32., tr. 32, tại Google Books; excerpt, "Treaty and Diplomatic Relations Between Germany and Korea. Treaty of Amity and Commerce dated ngày 23 tháng 11 năm 1883."
^Korean Mission, p. 32., tr. 32, tại Google Books; excerpt, "Treaty and Diplomatic Relations Between Great Britain and Korea... dated ngày 26 tháng 11 năm 1883."
^Korean Mission, p. 32., tr. 32, tại Google Books; excerpt, "Treaty and Diplomatic Relations Between Korea and Russia. Treaty of Amity and Commerce dated ngày 25 tháng 6 năm 1884."
^Korean Mission, p. 32., tr. 32, tại Google Books; excerpt, "Treaty and Diplomatic Relations Between Korea and Italy. Treaty of Friendship and Commerce dated ngày 26 tháng 6 năm 1884."
^Yi, Kwang-gyu and Joseph P. Linskey. (2003). Korean Traditional Culture, p. 63., tr. 63, tại Google Books; excerpt, "The so-called Hanseong Treaty was concluded between Korea and Japan. Korea paid compensation for Japanese losses. Japan and China worked out the Tien-Tsin Treaty, which ensured that both Japanese and Chinese troops withdraw from Korea."
^Korean Mission, p. 32., tr. 32, tại Google Books; excerpt, "Treaty and Diplomatic Relations Between Korea and France. Treaty of Friendship, Commerce, and Navigation dated ngày 4 tháng 6 năm 1886."
^Korean Mission, p. 32., tr. 32, tại Google Books; excerpt, "Treaty and Diplomatic Relations Between Korea and Austria. Treaty of Amity and Commerce dated ngày 23 tháng 7 năm 1892."
^Korean Mission, p. 32., tr. 32, tại Google Books; excerpt, "Treaty and Diplomatic Relations Between Korea and Belgium. Treaty of Amity and Commerce dated ngày 23 tháng 3 năm 1901."
^Korean Mission, p. 32., tr. 32, tại Google Books; excerpt, "Treaty and Diplomatic Relations Between Korea and Denmark. Treaty of Friendship, Commerce, and Navigation dated ngày 15 tháng 7 năm 1902."
^Korean Mission, p. 34., tr. 34, tại Google Books; excerpt, "Treaty of Alliance Between Japan and Korea, dated ngày 23 tháng 2 năm 1904."
^Note that the Korean Mission to the Conference on the Limitation of Armament in Washington, D.C., 1921–1922 identified this as "Treaty of Alliance Between Japan and Korea, dated ngày 23 tháng 2 năm 1904"
^Korean Mission, p. 35., tr. 35, tại Google Books; excerpt, "Alleged Treaty, dated ngày 22 tháng 8 năm 1904."
^Note that the Korean diplomats in 1921–1922 identified this as "Alleged Treaty, dated ngày 22 tháng 8 năm 1904"
^Korean Mission, p. 35., tr. 35, tại Google Books; excerpt, "Alleged Treaty, dated ngày 1 tháng 4 năm 1905."
^Note that the Korean diplomats in 1921–1922 identified this as "Alleged Treaty, dated ngày 1 tháng 4 năm 1905"
^Korean Mission, p. 35., tr. 35, tại Google Books; excerpt, "Alleged Treaty, dated ngày 13 tháng 8 năm 1905."
^Note that the Korean diplomats in 1921–1922 identified this as "Alleged Treaty, dated ngày 13 tháng 8 năm 1905"
^Korean Mission, p. 35., tr. 35, tại Google Books; excerpt, "Alleged Treaty, dated ngày 17 tháng 11 năm 1905."
^Note that the Korean diplomats in 1921–1922 identified this as "Alleged Treaty, dated ngày 17 tháng 11 năm 1905"
^Korean Mission, p. 35., tr. 35, tại Google Books; excerpt, "Alleged Treaty, dated ngày 24 tháng 7 năm 1907."
^Korean Mission, p. 36., tr. 36, tại Google Books; excerpt, "Alleged Treaty, dated ngày 20 tháng 8 năm 1910."
Korean Mission to the Conference on the Limitation of Armament, Washington, D.C., 1921–1922. (1922). Korea's Appeal to the Conference on Limitation of Armament. Washington: U.S. Government Printing Office. OCLC 12923609