Danae được đặt lườn vào ngày 1 tháng 12 năm 1916 tại xưởng đóng tàu của hãng Armstrong Whitworth ở Walker-on-Tyne và được hạ thủy vào ngày 26 tháng 1 năm 1918. Là chiếc dẫn đầu trong lớp, Danae là một trong những tàu tuần dương nhanh nhất vào lúc đó. Được cung cấp động lực bởi hai động cơ turbine hơi nướcBrown-Curtis công suất 40.000 mã lực, 6 nồi hơi và 2 chân vịt, nó có thể di chuyển với vận tốc 29 hải lý trên giờ (50 km/h); và với số lượng nhiên liệu 1.060 tấn dầu đốt mang theo, nó có tầm hoạt động 1.480 hải lý ở tốc độ 29 knot hoặc 6.700 hải lý ở tốc độ 10 knot. Nó cũng được bọc thép khá tươm tất, với hông lườn tàu và sàn chỉ huy được bảo vệ bằng thép tôi dày 76 mm (3 inch), thùng nhiên liệu và hầm đạn được bọc thép 57 mm (2¼ inch), và sàn tàu chính bọc thép 25 mm (2 inch).
Được chuyển sang Địa Trung Hải, từ năm 1927 đến năm 1929Danae phục vụ như một tàu hộ tống của Hải đội Tuần dương 1, rồi sau đó nó được rút về Anh để tái trang bị và hiện đại hóa. Quay lại hoạt động thường trực vào năm 1930, nó được đưa về Hải đội Tuần dương 8 đặt căn cứ tại Tây Ấn thuộc Anh. Vào năm 1935, khi Chiến tranh Trung-Nhật nổ ra, nó đã hộ tống nhiều đoàn tàu vận tải triệt thoái từ Thượng Hải đến Hồng Kông và từng bị Hải quân Nhật Bản nổ súng nhắm đến.
Sau việc chiếc ORP Dragon bị mất, vào ngày 4 tháng 10, Danae được chuyển cho Hải quân Ba Lan mượn. Là một tàu chị em với ORP Dragon, nó được vận hành hầu hết bởi những người còn sống sót của thủy thủ đoàn chiếc tàu tiền nhiệm. Được chỉ huy bởi Trung tá Hải quân Stanisław Dzienisiewicz, nó được tân trang tại Southampton và sau đó là Chatham cho đến ngày 23 tháng 1 năm 1945. Thoạt tiên nó được dự định đặt tên là "ORP Wilno" hoặc "ORP Lwów", theo tên các thành phố Wilno (Vilnius) và Lwów (Lviv). Điều này được xem là có nguy cơ gây tranh cãi: mặc dù chúng là một phần của Ba Lan cho đến lúc sau chiến tranh, phần lãnh thổ này đang bị Liên Xô tranh chấp. Các quan chức Anh không muốn xúc phạm đến người Xô Viết, nên đã chọn cái tên trung lập về phương diện chính trị ORP Conrad, được đặt theo tên nhà văn Józef Konrad Korzeniowski, vốn được biết đến với bút danh tiếng Anh Joseph Conrad.
Colledge, J. J.; Warlow, Ben (1969). Ships of the Royal Navy: the complete record of all fighting ships of the Royal Navy (Rev. ed.). London: Chatham. ISBN 978-1-86176-281-8. OCLC 67375475.