Bad World Tour

Bad World Tour
Logo quảng bá của tour diễn cho năm 1988
Chuyến lưu diễn của Michael Jackson
AlbumBad
Ngày bắt đầu12 tháng 9 năm 1987
Ngày kết thúc27 tháng 1 năm 1989
Số buổi diễn58 ở Bắc Mỹ
41 ở Châu Âu
23 ở Châu Á
5 ở Úc
127 tổng cộng
Doanh thu125.8 triệu đô (296.989 triệu đô theo thời giá năm 2025)[1]
Thứ tự chuyến lưu diễn của Michael Jackson
Victory Tour
(1984)
Bad
(1987–89)
Dangerous World Tour
(1992–93)

"Bad World Tour" là chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới đầu tiên của ca sĩ người Mỹ Michael Jackson với tư cách là nghệ sĩ hát đơn, đi qua Nhật Bản, Úc, Hoa KỳChâu Âu từ ngày 12 tháng 9 năm 1987 tới ngày 27 tháng 1 năm 1989. Chuyến lưu diễn được tài trợ bởi công ty Pepsi-Cola, bao gồm 123 buổi biểu diễn trong vòng 16 tháng với sự tham dự của 4,4 triệu khán giả[1]. Khi tour lưu diễn kết thúc và thu về hơn 125 triệu đôla, nó đã được 2 lần ghi vào Sách Kỷ lục Guinness cho tour lưu diễn có quy mô lớn nhất lịch sử và có nhiều khán giả tham dự nhất[2]. Chỉ tính riêng tại Mỹ, đã có đến 54 buổi biểu diễn, thu về 20,3 triệu đôla.

Vào tháng 4 năm 1989, chuyến lưu diễn đã được đề cử ở hạng mục "Tour diễn của năm 1988" tại lễ trao giải International Rock Award. Mặc dù giải thưởng đã thuộc về Amnesty International nhưng không ai có thể phủ nhận rằng chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới đầu tiên của Michael là chuyến lưu diễn lớn nhất thế giới[3].

Ở mọi buổi biểu diễn, Jackson đã dành riêng 400 vé cho những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Các vé này được chuyển đến các bệnh viện, trại mồ côi và quỹ từ thiện. Jackson còn dành tiền thu được từ các buổi biểu diễn để quyên góp cho các bệnh nhân mắc bệnh về thần kinh[4].

Tổng quát

Lượt thứ nhất

Ngày 29 tháng 6 năm 1987, quản lý của Michael là Frank DiLeo đã công bố kế hoạch về một tour diễn thế giới solo đầu tiên của nam ca sĩ.[2] Sponsored by Pepsi,[3] Kể từ sau thành công của album Bad, ra mắt ngày 31 tháng 8 năm 1987, đã tạo nên cơn sốt trên toàn cầu, đặc biệt là Nhật Bản, người ta đã đặt biệt danh cho Jackson là "Typhoon Michael" (Cơn bão Michael Jackson)[5]. Lúc này sức hút của Michael lan tỏa nhanh chóng và đã ngang bằng với MadonnaGeorge Michael. Khi máy bay của Michael Jackson đáp xuống sân bay Narita tại Tokyo, đã có đến 600 nhà báo, phóng viên cùng hàng trăm ngàn người hâm mộ la hét điên cuồng bao phủ khắp đường bay khi Michael đến.[4] Kể cả Bubbles, chú khỉ cưng của Michael, cũng đã có đến hơn 300 người đến chào hỏi.[4] Để vận chuyển những dụng cụ sân khấu, Michael đã cho một máy bay riêng để vận chuyển cùng 132 nhân viên của chuyến lưu diễn.

Khi Michael đang ở Tokyo, ca sĩ pop người Úc Molly Meldrum cũng đã bay đến để phỏng vấn trong một giờ với Michael Jackson và Frank DiLeo, người sau đó đã trở thành nhà quản lý của Michael.[4] Khi đang biểu diễn ở Osaka, Michael đã được Thị trưởng Yasushi Oshima trao tặng Chìa khóa đến thành phố[6]. Kể từ sau buổi biểu diễn ở Osaka, Michael luôn luôn biểu diễn bài hát I Just Can't Stop Loving You để tưởng nhớ Yoshioka Hagiwara, một cậu bé 5 tuổi bị bắt cóc và đã bị ám sát. Michael còn dành tặng 12 ngàn Đôla cho gia đình của Hagiwara.[5]

Sau 14 buổi biểu diễn ở Nhật Bản, tour diễn đã đến Úc với 5 buổi diễn tại Melbourne, SydneyBrisbane. Cũng giống như ở Nhật Bản, người ta cũng đặt biệt danh cho Michael là "Crocodile Jackson". Khi không lưu diễn, Jackson đã dành thời gian để đến thăm những trẻ em nghèo khó tại ngoại ô thành phố Sydney.

Vì nhiều lý do khác nhau nên các buổi biểu diễn ở WellingtonAuckland tại New Zealand đã bị hoãn lại.

Lượt thứ 2

Trước khi tour diễn bắt đầu, Michael đã được thiết kế một bộ trang phục mới. Lần này anh mặc một chiếc áo màu bạc cùng với quai đeo ở thắt lưng và đầu gối. Nhưng nhiều người vẫn nghĩ bộ trang phục mới của Michael hơi chật và trông rất buồn cười[7]. Sau các buổi diễn ở Nhật Bản và Úc, anh tiếp tục biểu diễn buổi diễn đầu tiên ở Mỹ, tại Pensacola, Florida.

Vào ngày 3 tháng 3 năm 1988, Michael tổ chức một buổi biểu diễn riêng tại Madison Square Garden,New York. Tổng số tiền thu được từ buổi diễn này Michael sẽ dành tặng cho quỹ United Negro College Fund. Các vé của buổi diễn này sẽ không được mua ở phòng bán vé mà thay vào đó sẽ có một máy quay xổ số xem ai may mắn được nhận vé. Siedah Garrett, người đã song ca cùng Michael trong bài hát I Just Can't Stop Loving You và đồng sáng tác bài hát Man in the Mirror cũng có một sự góp mặt đặc biệt. Vì bị cảm cúm nên buổi biểu diễn ở St. Louis, Missouri đã bị hoãn lại. Tại mỗi buổi diễn ở Atlanta,Georgia, anh đều dành 100 vé cho quỹ Children's Wish cho những trẻ em bị bệnh hiểm nghèo.

Sau các buổi diễn ở Mỹ, Jackson tiếp tục chuyến lưu diễn tại châu Âu, mà mở đầu là buổi biểu diễn tại Roma, Ý vào ngày 23 tháng 5 năm 1988. Chỉ vài tiếng đồng hồ trước khi buổi diễn bắt đầu. Jackson đã bí mật đi ra cửa sau của khách sạn Lord Byron để thay đồ và xoắn tóc giả, cạo râu và đi bộ đến nơi biểu diễn cùng với bảo vệ của anh. Sau buổi diễn, anh đã được một chiếc taxi riêng chở về khách sạn. Khi đang ở Roma, anh đã dành tặng 100 ngàn Đôla cho bệnh viện Bambino Gesù. Buổi diễn tiếp theo sau Roma là ở Torino.

Tour diễn tại Basel, Thụy Sĩ, đã có sự tham dự đặc biệt của Elizabeth Taylor, Bob Dylan. Tại đây, anh cũng đã gặp Oona O'Neill, góa phụ của vua hài Charlie Chaplin, thần tượng của Michael. Khi biểu diễn ở châu Âu, anh cũng đã được mọi người đặt tên là "The Earl of Whirl" và "Peter Pan của nhạc Pop".

Những buổi diễn tại Vương Quốc Anh, mà đặt biệt là tại sân vân động Sân vận động Wembley, là được nhiều khán giả chờ đợi nhất, vì tour diễn Victory Tour tại Anh năm 1984 đã bị hoãn lại. Anthony Davis, một nhân viên bảo vệ của buổi diễn, đã nói: "Tôi đã chờ giây phút này từ lâu lắm rồi". Tổng cộng 72 ngàn vé đã được bán hết. Buổi biểu diễn đầu tiên tại London vào ngày 14 tháng 7 năm 1988 đã có sự góp mặt của nhiều diễn viên nổi tiếng như Shirley Bassey, Jack NicholsonFrank Bruno. Hai ngày sau thì lại có sự tham dự của Công nương DianaHoàng tử Charles.

Michael biểu diễn tại Leeds vào ngày 29 tháng 8 năm 1988, ngày sinh nhật lần thứ 30 của anh. Tất cả các khán giả đều hát bài "Happy Birthday to You" để chúc mừng sinh nhật anh. Sau buổi diễn, anh đã dành tặng 130 ngàn Đôla cho quỹ từ thiện Give For Life. Buổi diễn cuối cùng của Michael ở Anh là tại Liverpool, nơi sản sinh ra nhóm nhạc huyền thoại The Beatles. Show diễn được tổ chức tại Aintree Racecourse với hơn 125 ngàn khán giả tham dự, là buổi biểu diễn có nhiều khán giả tham dự nhất của chuyến lưu diễn Bad World Tour.

Sau 41 buổi diễn ở châu Âu, Jackson quay trở lại Mỹ để biểu diễn lần thứ hai, anh biểu diễn thêm tại 7 thành phố nữa. Jackson dự định sẽ kết thúc chuyến lưu diễn vào ngày 26 tháng 12 năm 1988, nhưng vì bị sưng cổ họng nên anh phải hoãn 6 buổi biểu diễn tại Los Angeles, California vào tháng 11, nhưng anh đã biểu diễn lại 5 buổi diễn vào tháng 1 năm 1989. Tổng cộng đã có 23 buổi diễn tại Nhật Bản với lượng khán giả tham dự lên đến 570 ngàn người. 5 buổi diễn cuối cùng của anh là ở sân Memorial Sports Arena tại Los Angeles, khi kết thúc chuyến lưu diễn vào ngày 27 tháng 1 năm 1989, anh đã dành tiền thu được từ buổi biểu diễn cuối cùng để dành tặng cho tổ chức Childhelp.

Các ca khúc trình diễn

Lượt thứ nhất

Các buổi biểu diễn

Thứ tự Ngày Thành phố Quốc gia Địa điểm biểu diễn Khán giả
Lượt thứ nhất
Nhật Bản
1 12 tháng 9 năm 1987 Tokyo Nhật Bản Korakuen Stadium 45.000
2 13 tháng 9 năm 1987
3 14 tháng 9 năm 1987
4 19 tháng 9 năm 1987 Osaka Hankyu Nishinomiya Stadium 48.000
5 20 tháng 9 năm 1987
6 21 tháng 9 năm 1987
7 25 tháng 9 năm 1987 Yokohama Yokohama Stadium 38.000
8 26 tháng 9 năm 1987
9 27 tháng 9 năm 1987
10 3 tháng 10 năm 1987
11 4 tháng 10 năm 1987
12 10 tháng 10 năm 1987 Osaka Osaka Stadium 32.000
13 11 tháng 10 năm 1987
14 12 tháng 10 năm 1987
Châu Úc
15 13 tháng 11 năm 1987 Melbourne Úc Olympic Park Stadium 45.000
16 20 tháng 11 năm 1987 Sydney Parramatta Stadium
17 21 tháng 11 năm 1987
18 25 tháng 11 năm 1987 Brisbane Entertainment Centre 13.500
19 28 tháng 11 năm 1987
Lượt thứ hai
Bắc Mỹ
20 23 tháng 2 năm 1988 Kansas City Hoa Kỳ Kemper Arena 16.960
21 24 tháng 2 năm 1988
22 3 tháng 3 năm 1988 Thành phố New York Madison Square Garden 19.000
23 4 tháng 3 năm 1988
24 5 tháng 3 năm 1988
25 12 tháng 3 năm 1988 St. Louis St. Louis Arena 18.000
26 13 tháng 3 năm 1988
27 18 tháng 3 năm 1988 Indianapolis Market Square Arena 17.000
28 19 tháng 3 năm 1988
29 20 tháng 3 năm 1988 Louisville Freedom Hall 19.000
30 23 tháng 3 năm 1988 Denver McNichols Sports Arena 20.125
31 24 tháng 3 năm 1988
32 30 tháng 3 năm 1988 Hartford Hartford Civic Center 15.060
33 31 tháng 3 năm 1988
34 1 tháng 4 năm 1988
35 8 tháng 4 năm 1988 Houston The Summit 17.000
36 9 tháng 4 năm 1988
37 10 tháng 4 năm 1988
38 13 tháng 4 năm 1988 Atlanta The Omni 17.000
39 14 tháng 4 năm 1988
40 15 tháng 4 năm 1988
41 19 tháng 4 năm 1988 Chicago Rosemont Horizon 20.000
42 20 tháng 4 năm 1988
43 21 tháng 4 năm 1988
44 25 tháng 4 năm 1988 Dallas Reunion Arena 19.000
45 26 tháng 4 năm 1988
46 27 tháng 4 năm 1988
47 4 tháng 5 năm 1988 Minneapolis Met Center 16.890
48 5 tháng 5 năm 1988
49 6 tháng 5 năm 1988
Châu Âu
50 23 tháng 5 năm 1988 Roma Ý Flaminio Stadium 35.000
51 24 tháng 5 năm 1988
52 29 tháng 5 năm 1988 Torino Sân vận động Thành phố Torino 53.600
53 2 tháng 6 năm 1988 Viên Áo Sân vận động Prater 55.000
54 5 tháng 6 năm 1988 Rotterdam Hà Lan Sân vận động Feijenoord 48.400
55 6 tháng 6 năm 1988
56 7 tháng 6 năm 1988
57 11 tháng 6 năm 1988 Göteborg Thụy Điển Eriksburg Shipyard 53.000
58 12 tháng 6 năm 1988
59 16 tháng 6 năm 1988 Basel Thụy Sĩ St. Jakob Stadium 50.000
60 19 tháng 6 năm 1988 Berlin Đức Platz der Republik (Reichstag Building/Berlin Wall) 50.000
61 27 tháng 6 năm 1988 Paris Pháp Sân vận động Công viên các Hoàng tử 64.000
62 28 tháng 6 năm 1988
63 1 tháng 7 năm 1988 Hamburg Đức Volksparkstadion 50.000
64 3 tháng 7 năm 1988 Köln Sân vận động Müngersdorfer 70.000
65 8 tháng 7 năm 1988 München Sân vận động Olympic 72.000
66 10 tháng 7 năm 1988 Hockenheim Hockenheimring 80.000
67 14 tháng 7 năm 1988 Luân Đôn Anh Sân vận động Wembley 72.000
68 15 tháng 7 năm 1988
69 16 tháng 7 năm 1988
70 22 tháng 7 năm 1988
71 23 tháng 7 năm 1988
72 26 tháng 7 năm 1988 Cardiff Wales Cardiff Arms Park 55.000
73 30 tháng 7 năm 1988 Cork Ireland Páirc Uí Chaoimh 60.000
74 31 tháng 7 năm 1988
75 5 tháng 8 năm 1988 Marbella Tây Ban Nha Municipal Stadium 28.000
76 7 tháng 8 năm 1988 Madrid Sân vận động Vicente Calderón 60.000
77 9 tháng 8 năm 1988 Barcelona Camp Nou 90.000
78 11 tháng 8 năm 1988 Nice Pháp Stade Charles Ehrmann 50 000
79 14 tháng 8 năm 1988 Montpellier Stade Richter ?
80 19 tháng 8 năm 1988 Lausanne Thụy Sĩ La Pontaise 45.000
81 21 tháng 8 năm 1988 Würzburg Đức Talavera Wiesen 43.000
82 23 tháng 8 năm 1988 Werchter Bỉ Festival Grounds 55.000
83 26 tháng 8 năm 1988 Luân Đôn Anh Sân vận động Wembley 72.000
84 27 tháng 8 năm 1988
85 29 tháng 8 năm 1988 Leeds Roundhay Park 90.000
86 2 tháng 9 năm 1988 Hannover Đức Niedersachsenstadion 40.000
87 4 tháng 9 năm 1988 Gelsenkirchen Park Stadium 52.000
88 6 tháng 9 năm 1988 Linz Áo Linzer Stadium 40.000
89 10 tháng 9 năm 1988 Milton Keynes Anh The Bowl 60.000
90 11 tháng 9 năm 1988 Liverpool Aintree Racecourse 125.000
Bắc Mỹ lần 2
91 26 tháng 9 năm 1988 Pittsburgh Hoa Kỳ Civic Arena 16.230
92 27 tháng 9 năm 1988
93 28 tháng 9 năm 1988
94 3 tháng 10 năm 1988 East Rutherford Meadowlands Arena 20.350
95 4 tháng 10 năm 1988
96 6 tháng 10 năm 1988
97 10 tháng 10 năm 1988 Cleveland Richfield Coliseum 19.000
98 11 tháng 10 năm 1988
99 13 tháng 10 năm 1988 Washington DC Capital Centre 17.470
100 17 tháng 10 năm 1988
101 18 tháng 10 năm 1988
102 19 tháng 10 năm 1988
103 24 tháng 10 năm 1988 Detroit The Palace of Auburn Hills 16.670
104 25 tháng 10 năm 1988
105 26 tháng 10 năm 1988
106 7 tháng 11 năm 1988 Irvine Irvine Meadows Amphitheater 15.000
107 8 tháng 11 năm 1988
108 9 tháng 11 năm 1988
109 13 tháng 11 năm 1988 Los Angeles Memorial Sports Arena 18.000
Nhật Bản lần 2
110 9 tháng 12 năm 1988 Tokyo Nhật Bản Tokyo Dome 45.000
111 10 tháng 12 năm 1988
112 11 tháng 12 năm 1988
113 17 tháng 12 năm 1988
114 18 tháng 12 năm 1988
115 19 tháng 12 năm 1988
116 24 tháng 12 năm 1988
117 25 tháng 12 năm 1988
118 26 tháng 12 năm 1988
Bắc Mỹ lần 3
119 16 tháng 1 năm 1989 Los Angeles Mỹ Memorial Sports Arena 18.000
120 17 tháng 1 năm 1989
121 18 tháng 1 năm 1989
122 26 tháng 1 năm 1989
123 27 tháng 1 năm 1989

Tham khảo

  1. ^ Cụm nguồn chỉ số giá cả lạm phát tại Hoa Kỳ:
    • Giai đoạn 1634–1699: McCusker, J. J. (1997). How Much Is That in Real Money? A Historical Price Index for Use as a Deflator of Money Values in the Economy of the United States: Addenda et Corrigenda [Giá đó đổi sang tiền thật bằng bao nhiêu? Chỉ số giá cả theo lịch sử lưu lại được sử dụng làm công cụ giảm phát giá trị tiền tệ trong nền kinh tế Hoa Kỳ: Addenda et Corrigenda] (PDF) (bằng tiếng Anh). American Antiquarian Society.
    • Giai đoạn 1700–1799: McCusker, J. J. (1992). How Much Is That in Real Money? A Historical Price Index for Use as a Deflator of Money Values in the Economy of the United States [Giá đó đổi sang tiền thật bằng bao nhiêu? Chỉ số giá cả theo lịch sử lưu lại được sử dụng làm công cụ giảm phát giá trị tiền tệ trong nền kinh tế Hoa Kỳ] (PDF) (bằng tiếng Anh). American Antiquarian Society.
    • Giai đoạn 1800–nay: Cục Dự trữ Liên bang Ngân hàng Minneapolis. “Consumer Price Index (estimate) 1800–” [Chỉ số giá tiêu dùng (ước tính) 1800–] (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2024.
  2. ^ “Jackson sets solo world tour”. The Miami News. ngày 30 tháng 6 năm 1987. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.[liên kết hỏng]
  3. ^ Campbell 1993, p. 186.
  4. ^ a b c childrenbed
  5. ^ “TheMichaelJacksonArchives – Bad Japan Tour 1987”.

Read other articles:

العلاقات الأوزبكستانية المكسيكية أوزبكستان المكسيك   أوزبكستان   المكسيك تعديل مصدري - تعديل   العلاقات الأوزبكستانية المكسيكية هي العلاقات الثنائية التي تجمع بين أوزبكستان والمكسيك.[1][2][3][4][5] مقارنة بين البلدين هذه مقارنة عامة ومرجعية �...

 

Vous lisez un « bon article » labellisé en 2022. Pour les articles homonymes, voir Dérive. Pour des articles plus généraux, voir Empennage et Configuration générale d'un avion. La dérive est, en aéronautique, une surface verticale qui assure la stabilité de route (sur l'axe de lacet) et le contrôle directionnel des avions, et des aéronefs volant selon les mêmes principes aérodynamiques qu'un avion : planeurs, missiles de croisière, drones ou encore navettes spa...

 

United States historic placeSpring Valley Public LibraryU.S. National Register of Historic Places Spring Valley Public LibraryShow map of MinnesotaShow map of the United StatesLocation121 E. Jefferson St. Spring Valley MN 55975Coordinates43°41′19.5″N 92°23′22.5″W / 43.688750°N 92.389583°W / 43.688750; -92.389583Built1904ArchitectH. J. AmlicArchitectural styleBeaux-ArtsMPSFillmore County MRANRHP reference No.82002951 [1]Added to NRHPAp...

Hokkien and Teochew dish widely adapted in Malay and Indonesia Ngo hiangAlternative namesHeh gerng (China); lor bak (Indonesia, Malaysia, Singapore); que-kiam, kikiam, kikyam, kekiam, ngohiong (Philippines)Place of originFujian, ChinaRegion or stateFujian, China; Hokkien-speaking areas; Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, ThailandMain ingredientsVarious meats and vegetables, five spice powder, tofu skin  Media: Ngo hiang Ngo hiangTraditional Chinese五香Simplified Chin...

 

Part of a series on theHistory of Japan ListPaleolithicbefore 14,000 BCJōmon14,000 – 1000 BCYayoi 1000 BC – 300 ADKofun 300 AD – 538 ADAsuka 538 – 710Nara 710 – 794HeianFormer Nine Years' WarLater Three-Year WarGenpei War 794–1185KamakuraJōkyū WarMongol invasionsGenkō WarKenmu Restoration 1185–1333MuromachiNanboku-chō periodSengoku period 1336–1573Azuchi–Momoyama Nanban tradeImjin WarBattle of Sekigahara 1573–1603Edo (Tokugawa) Tok...

 

Gaetano Auteri Auteri sulla panchina del Matera nel 2016 Nazionalità  Italia Calcio Ruolo Allenatore (ex attaccante) Squadra  Benevento Termine carriera 1992 - giocatore CarrieraSquadre di club1 1979-1981 Siracusa37 (4)1981-1984 Varese88 (20)1984-1986 Genoa29 (2)1986-1988 Monza64 (13)1988-1990 Palermo52 (12)1990-1991 Licata22 (4)1991-1992 Leonzio12 (3)Carriera da allenatore 1994-1995 Atletico CataniaPortieri1995-1996 Ragusa1998-2001...

Road HouseElwood Dalton (Jake Gyllenhaal) in una scena del filmLingua originaleinglese Paese di produzioneStati Uniti d'America Anno2024 Durata114 minuti Genereazione RegiaDoug Liman Soggettodal film Il duro del Road House di Rowdy Herrington storia di Anthony Bagarozzi, Charles Mondry, David Lee Henry SceneggiaturaAnthony Bagarozzi, Charles Mondry ProduttoreJoel Silver Casa di produzioneMetro-Goldwyn-Mayer, Silver Pictures Distribuzione in italianoPrime Video FotografiaHenry Braham Montaggio...

 

Pour les articles homonymes, voir BFA. Cet article est une ébauche concernant l’enseignement du cinéma. Vous pouvez partager vos connaissances en l’améliorant (comment ?) selon les conventions filmographiques. Si ce bandeau n'est plus pertinent, retirez-le. Cliquez ici pour en savoir plus. Cet article ne cite pas suffisamment ses sources (juillet 2012). Si vous disposez d'ouvrages ou d'articles de référence ou si vous connaissez des sites web de qualité traitant du thème abor...

 

إسقاط مقاتلة تركية في يونيو 2012 طائرة إف-4 فانتوم الثانية تركية، مشابهه للتي أسقطت في سوريا. ملخص الحادث التاريخ 22 يونيو 2012 نوع الحادث أسقطت من قبل قوات الدفاع الجوي السوري الموقع الحدود التركية السورية إحداثيات 35°50′01″N 35°30′36″E / 35.833476°N 35.509937°E / 35.833476; 35.509937  ...

Supercoupe d'Espagne de football Logo de la Supercoupe d'EspagneGénéralités Sport Football Création 1982 Organisateur(s) RFEF Éditions 40 (en 2024) Catégorie National Périodicité Annuelle Lieu(x) Arabie Saoudite Espagne Participants 4 équipes (depuis janvier 2020) Site web officiel http://www.rfef.es Palmarès Tenant du titre Real Madrid (2024) Plus titré(s) FC Barcelone (14) Meilleur(s) buteur(s) Lionel Messi (14) Pour la dernière compétition voir : Supercoupe d'Espagn...

 

Egyptian politician Mohammad Faridمحمد فريدMuhammad FarîdBorn(1868-01-20)January 20, 1868Cairo, EgyptDiedNovember 15, 1919(1919-11-15) (aged 51)Berlin, GermanyNationalityEgyptianOccupationpoliticianPolitical partyNational Party Mohammad Farid (or Muhammad Farîd; Arabic: محمد فريد; January 20, 1868 in Cairo – November 15, 1919 in Berlin) was an influential Egyptian political figure.[1][2] He was a nationalist leader, writer, and lawyer. Early Life Farid...

 

American politician (1830–1893) James Blaine redirects here. Not to be confused with James Blain. For the political organization associated with him, see Blaine faction. James G. BlaineBlaine c. 1870s28th and 31st United States Secretary of StateIn officeMarch 9, 1889 – June 4, 1892PresidentBenjamin HarrisonPreceded byThomas F. BayardSucceeded byJohn W. FosterIn officeMarch 7, 1881 – December 19, 1881PresidentJames A. GarfieldChester A. ArthurPreceded byWilliam M. Evar...

انقلاب القرمانلي 1711 هو حدث أنهى الصراعات الداخلية في إيالة طرابلس الغرب التابعة الدولة العثمانية. بقيادة الضابط أحمد القرمانلي،[1] ضد الوالي العثماني الحاكم لطرابلس، حيث استولى القرمانلي على طرابلس ونصب نفسه على رأس الأسرة القرمانلية، التي حكمت طرابلس وبرقة وفزان لم�...

 

Marutea SudPulau Marutea Sud yang diambil oleh NASAMarutea SudGeografiLokasiSamudera PasifikKoordinat21°31′S 135°33′W / 21.517°S 135.550°W / -21.517; -135.550KepulauanTuamotuLuas112 km2  (laguna)12 km2 (4,6 sq mi) (dpl)Panjang20 kmLebar8 kmPemerintahanNegara PrancisKolektivitas Polinesia PrancisAdministrative subdivisionTuamotuKomuneKepulauan GambierKota terbesarAuorotiniKependudukanPenduduk245[1] jiwa&...

 

Title in the Peerage of Scotland held by the head of Clan Murray Not to be confused with Earl of Atholl. This article has multiple issues. Please help improve it or discuss these issues on the talk page. (Learn how and when to remove these template messages) This article includes a list of general references, but it lacks sufficient corresponding inline citations. Please help to improve this article by introducing more precise citations. (April 2017) (Learn how and when to remove this message...

Arbre généalogique de la dynastie Keita. Fondée par Soundiata Keita en 1235, qui fut le premier Mansa, ou Empereur, cette dynastie a marqué l'histoire avec des figures emblématiques comme Mansa Moussa qui monta sur le trône en 1312 et présida à l'apogée de l'Empire du Mali. Cependant, après des siècles de grandeur, la dynastie a vu son dernier souverain régnant, Mahmud IV, régner jusqu'en 1610. Son règne fut marqué par la chute de l'Empire, entraînée par la défaite de la bat...

 

Reconstructed common ancestor of the Dravidian languages Proto-DravidianReconstruction ofDravidian languagesRegionPeninsular India, Deccan PlateauErac. 4th–3rd m. BCELower-order reconstructions Proto South-Dravidian Proto South-Central-Dravidian Proto Central-Dravidian Proto North-Dravidian Part of a series onDravidian culture and history OriginIndus Valley Civilisation Keezhadi excavation site History History of South India Ancient history of Sri Lanka Dravidian dynasties Chola Chera ...

 

大相撲令和6年5月場所 会場の国技館(両国国技館)基本情報会場 国技館(両国国技館)番付発表 2024年4月30日開催期間 2024年5月12日 - 5月26日(15日間)各段優勝・三賞幕内最高優勝 大の里泰輝(12勝3敗)十両優勝 若隆景渥(14勝1敗)幕下優勝 藤青雲龍輝(7戦全勝)三段目優勝 旭海雄蓮(7戦全勝)序二段優勝 朝東恒汰(7戦全勝)序ノ口優勝 野田典雅(6勝1敗)殊勲賞 �...

Pour les articles homonymes, voir Enka (homonymie). Enka Données clés Origines stylistiques Ryūkōka, rōkyoku, min'yō, folk, country, pop, tango Origines culturelles Années 1950 ; Japon (nom dérivé d'une musique de la fin du XIXe siècle. Instruments typiques Chant, batterie, guitare, guitare basse, piano, saxophone, trompette, trombone, shamisen, shakuhachi Popularité Élevée au Japon à la fin des années 1960 et au début des années 1970 modifier L'enka (演歌?) est ...

 

Illyrian people Taulant redirects here. For the given name, see Taulant (name). Taulantii or Taulantians[1] ('swallow-men'; Ancient Greek: Ταυλάντιοι, Taulantioi or Χελιδόνιοι, Chelidonioi; Latin: Taulantii) were an Illyrian people that lived on the Adriatic coast of southern Illyria (modern Albania). They dominated at various times much of the plain between the rivers Drin (Drilon) and Vjosa (Aoös). Their central area was the hinterland of Epidamnos-Dyrrhachion, ...