Lớp Edsall có thiết kế hầu như tương tự với lớp Cannon dẫn trước; khác biệt chủ yếu là ở hệ thống động lực Kiểu FMR do được trang bị động cơ dieselFairbanks-Morse dẫn động qua hộp số giảm tốc đến trục chân vịt. Đây là cấu hình động cơ được áp dụng rộng rãi trên tàu ngầm, được chứng tỏ là có độ tin cậy cao hơn so với lớp Cannon.[2][3]
Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đôi và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[4][5] Con tàu vẫn giữ lại ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm), và được trang bị radarSC dò tìm không trung và mặt biển. Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 186 sĩ quan và thủy thủ.[4]
Lên đường vào ngày 1 tháng 9, Stockdale nằm trong thành phần tháp tùng bảo vệ cho tàu sân bay hộ tốngMatanikau để hướng sang Honshū, Nhật Bản. Nó ở lại vùng biển Nhật Bản một thời gian ngắn trước khi chuyển đến Guam và hoạt động như một tàu quan trắc thời tiết. Con tàu lại đi đến khu vực quần đảo Admiralty để hoạt động tìm kiếm những nhân sự mất tích trong chiến tranh, và đi đến Rabaul, New Britain để khảo sát hiệu quả của việc ném bom chiến lược. Con tàu được lệnh quay trở về vùng bờ Đông Hoa Kỳ vào tháng 1, 1946.[1]
^Rivet, Eric; Stenzel, Michael. “Classes of Destroyer Escorts”. History of Destroyer Escorts. Destroyer Escort Historical Museum. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2022.