Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc, xuất biên chế năm 1946, rồi được tạm thời chuyển cho Tuần duyên Hoa Kỳ để phục vụ như là chiếc USCGC Forster (WDE-434) từ năm 1951 đến năm 1954. Sau khi hoàn trả cho Hải quân, nó được xếp lại lớp như một tàu hộ tống khu trục cột mốc radarDER-334 và tiếp tục hoạt động; con tàu cũng từng tham gia các chiến dịch trong cuộc Chiến tranh Việt Nam. Forster được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II,[2] và thêm bảy Ngôi sao Chiến trận khác khi hoạt động tại Việt Nam.[1]
Lớp Edsall có thiết kế hầu như tương tự với lớp Cannon dẫn trước; khác biệt chủ yếu là ở hệ thống động lực Kiểu FMR do được trang bị động cơ dieselFairbanks-Morse dẫn động qua hộp số giảm tốc đến trục chân vịt. Đây là cấu hình động cơ được áp dụng rộng rãi trên tàu ngầm, được chứng tỏ là có độ tin cậy cao hơn so với lớp Cannon.[3][4]
Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đôi và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[5][6] Con tàu vẫn giữ lại ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm), và được trang bị radarSC dò tìm không trung và mặt biển. Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 186 sĩ quan và thủy thủ.[5]
Forster đã phục vụ trong Đường cảnh báo sớm từ xa - (DEW: Distant Early Warning) Line - nhằm cảnh báo sớm khả năng bị máy bay ném bom chiến lược hay tên lửa đạn đạo đối phương tấn công. Nó được bố trí tại khu vực Bắc Thái Bình Dương, khoảng 200 mi (320 km) ngoài khơi bờ biển Seattle, Washington, theo một lịch trình tuần tra dọc theo hướng Bắc-Nam trong hai tuần xen kẻ với hai tuần quay về cảng để bảo trì và tiếp liệu. Sang đầu thập niên 1960, nó được điều động đến Trân Châu Cảng cho nhiệm vụ tương tự, đồng thời cũng được phái sang Việt Nam để tham gia Chiến dịch Market Time, một hoạt động tuần tra nhằm ngăn chặn và tiêu diệt tàu thuyền của phía Bắc Việt Nam vận chuyển vũ khí và đạn dược xâm nhập vào Nam Việt Nam.[2]
Vào tháng 2, 1966, Forster hộ tống cho chín tàu cutter thuộc Đội 13, Hải đội Tuần duyên 1 của Tuần duyên Hoa Kỳ đi từ Căn cứ Hải quân vịnh Subic, Philippines đi sang Vũng Tàu, Nam Việt Nam.[8] Vào giai đoạn 1968-1969, con tàu làm nhiệm vụ bắn hải pháo hỗ trợ cho hoạt động của lực lượng trên bộ, xen kẻ với những chuyến tuần tra tại eo biển Đài Loan. Con tàu được điều động về khu vực Đại Tây Dương vào cuối năm 1969.[2]
Khi chính quyền Nam Việt Nam sụp đổ vào ngày 30 tháng 4, 1975, Trần Khánh Dư đang được đại tu trong Hải quân Công xưởng nên không thể vận hành, và do đó không thể cùng các tàu chiến khác của Nam Việt Nam tháo chạy sang Philippines.[10]
HQ-03
Con tàu được Hải quân nhân dân Việt Nam tiếp quản như là chiếc HQ-03, nhưng bị bỏ không trong một thời gian dài trước khi có thể phục hồi. Nguồn của Navsource.org cho rằng con tàu được đổi tên thành Dai Ky (?) (HQ-03),[1] nhưng không có bất kỳ nguồn thông tin trong nước nào xác nhận điều này; có thể thấy trong suốt giai đoạn cuối thế kỷ 20 tàu chiến của HQND Việt Nam không được đặt tên mà chỉ có số hiệu. Vào năm 1979 con tàu đã có thể hoạt động trở lại, nên đã tham gia vào chiến dịch giải phóng cảng Sihanoukville trong khuôn khổ cuộc Chiến tranh biên giới Việt Nam-Campuchia.[9][11][12]
Tính đến năm 1997[cập nhật], HQ-03 được cho là vẫn hoạt động như một tàu huấn luyện.[1] Số phận của con tàu đã bị phá dỡ.
Phần thưởng
Forster được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II,[2] và thêm bảy Ngôi sao Chiến trận khác khi hoạt động trong cuộc Chiến tranh Việt Nam.[1]
^Rivet, Eric; Stenzel, Michael. “Classes of Destroyer Escorts”. History of Destroyer Escorts. Destroyer Escort Historical Museum. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2022.