USS Medregal (SS-480/AGSS-480) là một tàu ngầm lớp Tench được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên tiếng Tây Ban Nha của một loài trong họ Cá khế.[1][2] Nhập biên chế năm 1945, nó hoàn tất quá trễ để có thể phục vụ trong Thế Chiến II, nhưng đã phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến khi xuất biên chế vào năm 1970. Con tàu bị bán để tháo dỡ vào năm 1972.
Lớp tàu ngầm Tench là sự cải tiến tiếp theo của các lớp tàu ngầm hạm độiBalao và Gato, vốn đã chứng minh thành công trong hoạt động chống Nhật Bản tại Mặt trận Thái Bình Dương. Lớp tàu này, tích lũy những kinh nghiệm trong giai đoạn đầu của cuộc xung đột, là lớp tàu ngầm cuối cùng được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong chiến tranh.[7]
Những chiếc lớp Tench có chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m), mạn tàu rộng 27 ft 4 in (8,33 m) và mớn nước tối đa 17 ft (5,2 m), có trọng lượng choán nước 1.570 tấn Anh (1.600 t) khi nổi và 2.414 tấn Anh (2.453 t) khi lặn. Chúng trang bị bốn động cơ dieselFairbanks-Morse 38D8-⅛ 10-xy lanh chuyển động đối xứng, dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho hai động cơ điện, đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) cho phép di chuyển với tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) khi nổi. Khi hoạt động ngầm dưới nước, chúng được cung cấp điện từ hai dàn ắc-quySargo 126-cell để vận hành hai động cơ điệnElliott lõi kép tốc độ chậm, có công suất 2.740 shp (2.040 kW) và đạt tốc độ tối đa 8,75 kn (16,21 km/h). Tầm xa hoạt động là 16.000 hải lý (30.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 kn (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày; tuy nhiên khả năng hoạt động ngầm bị giới hạn bởi dung lượng điện ắc-quy, sẽ cạn trong 48 giờ khi di chuyển với tốc độ 2 kn (3,7 km/h). Chiếc tàu ngầm mang theo tiếp liệu đủ cho mười sĩ quan và 71 thủy thủ trong 75 ngày.[4][8]
Medregal đi đến Xưởng hải quân Charleston vào ngày 17 tháng 6, 1957 để được cải biến thành một tàu ngầm dẫn đường cho tên lửa hành trình. Nó hòa tát việc đại tu vào ngày 22 tháng 11, rồi đi đến Norfolk, Virginia để hoạt động cùng Hải đội Tàu ngầm 6. Trong suốt 18 tháng tiếp theo, nó tham gia các dự án đánh giá tên lửa tại vùng biển Caribe ngoài khơi quần đảo Virgin và trong Đại Tây Dương ngoài khơi Puerto Rico.[1]
Medregal tiếp tục hoạt động huấn luyện và thực hành cùng hải đội tại khu vực giữa Hawaii và vùng bờ Tây. Từ tháng 9, 1961 đến tháng 3, 1962, nó có lượt phục vụ thứ hai cùng Đệ Thất hạm đội tại Viễn Đông. Sang tháng 5, 1962, nó cùng với tàu ngầm Carbonero (SS-337) tham gia một cuộc thử nghiệm bom nguyên tử gần đảo Christmas trong khuôn khổ Chiến dịch Dominic, là lần đầu tiên và duy nhất một tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầmUGM-27 Polaris mang đầu đạn nhiệt hạch 600 kt được thử nghiệm khi được phóng từ tàu ngầm Ethan Allan (SSBN-608). Đến tháng 10, nó quay về vùng bờ Tây để tham gia cuộc tập trận chống tàu ngầm SLAMEX và huấn luyện dự bị tại vùng biển Puget Sound. Sau khi quay trở lại Trân Châu Cảng vào giữa tháng 12, trong hai năm tiếp theo nó hoạt động huấn luyện và thực hành thường lệ tại khu vực giữa Hawaii và vùng bờ Tây.[1]
Medregal khởi hành từ Trân Châu Cảng vào ngày 2 tháng 7, 1966 để đi sang Nhật Bản. Nó ghé đến Yokosuka vào ngày 15 tháng 7, rồi tham gia cùng các tàu sân bay và tàu khu trục thuộc Đệ Thất hạm đội để thực hành chống tàu ngầm tại khu vực Tây Thái Bình Dương, cũng như tập trận phối hợp cùng tàu chiến của Hải quân Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Đến tháng 1, 1967, chiếc tàu ngầm quay trở về cảng nhà tại quần đảo Hawaii, nơi nó tiếp nối các hoạt động huấn luyện và thực hành cùng Hải đội Tàu ngầm 1 từ căn cứ Trân Châu Cảng cho đến 1 tháng 5. Nó được điều sang Hải đội Tàu ngầm 3 đặt căn cứ tại San Diego, California. Đến ngày 1 tháng 5, 1967, nó được xếp lại lớp như một tàu ngầm phụ trợ, và mang ký hiệu lườn AGSS-480. Vào ngày 6 tháng 2, 1969, trong một cuộc thực hành tác xạ, nó phóng ngư lôi đánh chìm mục tiêu là tàu ngầm Redfish (SS-395), một cựu binh thời Thế Chiến II, ngoài khơi bờ biển California.[1]
Vào ngày 24 tháng 6, 1969, Medregal xuất phát từ San Diego cho lượt phục vụ cuối cùng tại khu vực Tây Thái Bình Dương. Chiếc tàu ngầm đã có các chặng dừng tại Hawaii; Guam; Việt Nam (hai lần); vịnh Subic và Manila, Philippines; Changwon, Hàn Quốc; Yokosuka và Kobe, Nhật Bản; Cao Hùng, Đài Loan; và Hong Kong.[1] Trong giai đoạn này nó được xếp lại lớp như một tàu ngầm tấn công và mang lại ký hiệu lườn cũ SS-480 từ ngày 1 tháng 10. Sau khi quay trở về San Diego vào ngày 24 tháng 12, 1969, nó tiếp tục các hoạt động tại chỗ cho đến tháng 8, 1970.[1]
Bauer, K. Jack; Roberts, Stephen S. (1991). Register of Ships of the U.S. Navy, 1775–1990: Major Combatants. Westport, Connecticut: Greenwood Press. ISBN0-313-26202-0.
Blair, Clay Jr. (1975). Silent Victory: The U.S. Submarine War Against Japan. Philadelphia: Lippincott. ISBN0-397-00753-1.