2 × đường ray thả mìn sâu, mang theo cho đến 200 quả
USS Charles Lawrence (DE-53/APD-37) là một tàu hộ tống khu trụclớp Buckley được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Hạ sĩ quan kỹ thuật không quân Charles Lawrence (1916-1941), người từng phục vụ tại Căn cứ Không lực Hải quân vịnh Kaneohe, Oahu, và đã tử trận trong cuộc tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12, 1941.[2] Nó đã phục vụ trong chiến tranh cho đến năm 1944, khi được cải biến thành một tàu vận chuyển cao tốc mang ký hiệu lườn APD-37, và tiếp tục phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc; nó xuất biên chế năm 1946 và bị tháo dỡ năm 1965. Charles Lawrence được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế và chế tạo
Những chiếc thuộc lớp tàu hộ tống khu trục Buckley có chiều dài chung 306 ft (93 m), mạn tàu rộng 37 ft 1 in (11,30 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 11 ft 3 in (3,43 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.400 tấn Anh (1.400 t); và lên đến 1.740 tấn Anh (1.770 t) khi đầy tải.[3] Hệ thống động lực bao gồm hai turbine hơi nướcGeneral Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp) để vận hành hai trục chân vịt; [4][5] công suất 12.000 hp (8.900 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 23 kn (26 mph; 43 km/h), và có dự trữ hành trình 6.000 nmi (6.900 mi; 11.000 km) khi di chuyển ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[6]
Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội 1,1 inch/75 caliber bốn nòng và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[6][7] Khác biệt đáng kể so với lớp Evarts dẫn trước là chúng có thêm ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm). Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 186 sĩ quan và thủy thủ.[6]
Thoạt tiên được phái sang Mặt trận Đại Tây Dương, Charles Lawrence đảm nhiệm hộ tống các tàu chở dầu đi từ Norfolk, Virginia sang Casablanca, Morocco thuộc Pháp, và đã thực hiện một chuyến đi như vậy từ ngày 16 tháng 8 đến ngày 24 tháng 9, 1943. Sau đó nó chuyển sang hộ tống các đoàn tàu vận tải nhanh, gồm các tàu chở dầu từ các cảng vùng Caribe được tập trung tại thành phố New York sau khi di chuyển độc lập dọc theo vùng bờ Đông. Từ ngày 13 tháng 10, 1943 đến ngày 23 tháng 9, 1944, tổng cộng nó đã hộ tống cho tám chuyến đi khứ hồi như vậy đến Bắc Ireland, và quay trở về New York với các khoang tàu được chất đồ dằn.[2]
Đi đến ngoài khơi bãi Hagushi vào ngày 1 tháng 4 trong thành phần hộ tống cho 20 tàu vận chuyển, Charles Lawrence ở lại gần bờ để hỗ trợ cho cuộc đổ bộ ban đầu, rồi di chuyển ra khơi để hình thành nên vòng đai bảo vệ cho khu vực đổ bộ. Trong ba tháng tiếp theo nó liên tục hoạt động tuần tra ngoài khơi Okinawa, đánh trả các cuộc tấn công bởi xuồng máy cảm tử, máy bay và tàu ngầm đối phương, chỉ bị ngắt quãng bởi các chuyến hộ tống vận tải đến các cảng tại Philippines, Mariana và Caroline. Thường xuyên bị máy bay Kamikaze tấn công, con tàu không chịu thiệt hại hay thương vong nào.[2]