Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên (tiếng Anh: Little house on the prairie) là nhan đề một phim truyền hình do ông Michael Landon làm tổng đạo diễn, xuất phẩm giai đoạn 1974—1983 trên sóng NBC.[1][2]
Cũng giai đoạn này, kĩ thuậttruyền hình thế giới còn rất sơ khai. Việc chế tác mỗi cuốn phim truyền hình thường rất tốn kém so với phim điện ảnh, trong khi lợi nhuận hầu như bằng 0. Do vậy, để tiết kiệm tối đa kinh phí nhân lực, các hãng sản xuất thường chọn bối cảnh hẹp, tuyến truyện giản đơn và ít tài tử, cho nên phim truyền hình thời này chỉ được gọi là drama (kịch). Tuy nhiên, sau khi cân nhắc các ý tưởng nghệ thuật và dự trù những rủi ro có thể phát sinh, tổng giám chế Ed Friendly vẫn quyết tâm thực hiện.
Để tiết kiệm nguồn kinh phí ban đầu, nhà sản xuất phải tiến hành tuyển trạch diễn viên rất kĩ lưỡng, mà đạo diễn Michael Landon làm giám khảo chính, nhằm có dàn tài tử chấp nhận lương thấp và chỉ tập trung diễn thay vì mặc cả như các minh tinhHollywood đương thời thường thích thể hiện. Phim được bấm máy theo hình thức cuốn chiếu (chế tác tới đâu phát hành tới đấy) để thăm dò thị hiếu công chúng. Hai tập đầu bắt đầu lên sóng truyền hìnhNBC ngày 30 tháng 03 năm 1974 để chờ loạt phản hồi của khán giả. Sau khi nhận thấy những hiệu ứng tích cực, nhà sản xuất mới quyết định chiếu những tập tiếp từ ngày 11 tháng 09 cùng năm, và cứ thế kéo dài tới đầu năm 1983 - tức là cả thảy được những 9 năm ròng.[3]
Trong thời kì Tây tiến, vùng Big Woods (Wisconsin) ngày càng chật như nêm vì đất không đủ chứa người mới sinh và người từ miền Đông tới. Năm 1869, anh thợ săn Charles Ingalls cực chẳng đã đành chia tay cha mẹ và anh chị em để dắt vợ con đi sang Viễn Tây với hi vọng tìm được đất đủ rộng để canh tác.
Hành trình đi tìm miền đất hứa rất gian khổ, nhưng rốt cuộc gia đình Ingalls cũng tới được Kansas, cắm mốc mang tên mình tại phần đất đã được chính phủ cấp phép. Tại đây, cô bé Carrie Ingalls cất tiếng khóc chào đời.
Mà rồi chẳng bao lâu, những người da đỏ đói khát đã tới làm phiền, dù vậy nhà Ingalls chóng giao hòa được với họ. Vị tân tù trưởng tới thông báo rằng, gia đình Ingalls phải rời đi vì cắm mốc "nhầm chỗ". Bộ lạc đã được chính phủ Hoa Kỳ nhượng lại khu vực này để họ ngưng quấy tuyến thiết lộ Đông-Tây đang xây dựng.
Tuy rằng phải bỏ cơ nghiệp cùng mùa ngô hứa hẹn bội thu, nhưng nhà Ingalls không còn chọn lựa khả dĩ hơn. Bù lại, họ nhận được tình cảm quý mến của vị tù trưởng trẻ tuổi và bác thợ rừng Isaiah Edwards.
Phần 2 : 003 ⇀ 088
Sau thời gian rất dài lang bạt kì hồ, mãi tới năm 1874, gia đình Ingalls mới tậu được thửa đất rất đẹp ven một con lạch gần thị trấn Walnut Grove (Minnesota). Họ bắt đầu làm quen với những người láng giềng mới và tiến hành gầy dựng lại cơ nghiệp. Hàng xóm có người định cư tại đây mấy chục năm, cũng có người chỉ mới chân ướt chân ráo tới, kẻ xấu người tốt đủ cả nhưng đem lại bao rắc rối cho vùng quê mới.
Chị em Mary và Laura lại cặm cụi cắp sách tới trường như thời ở Big Woods, trong khi gia cảnh vẫn chưa cải thiện là bao. Nhưng trong bộn bề khó khăn vẫn đây đó có tình gia đình, nghĩa láng giềng. Thế giới thảo nguyên thơ mộng vẫn lộng lẫy đợi họ khám phá.
Phần 3 : 089 ⇀ 160
Gia đình Ingalls nhận nuôi cậu bé Albert Quinn và có thêm em Grace Ingalls, sau đó lại nhận thêm anh em James và Cassandra Cooper.
Ở tuổi dậy thì, cô bé Mary bị mù vì di chứng tinh hồng nhiệt[5]. Cô phải gác mọi ước mơ cao sang và bỏ cả thành tích học tập rạng ngời để vào trường khiếm thị, những tưởng cuộc đời đã kết thúc. Tại đây, Mary gặp rồi kết hôn với thầy giáo mù Adam Kendall.
Còn Laura cũng ngày càng nhổ giò, không còn tinh nghịch và lười học như xưa nữa. Cô thầm yêu chàng nài ngựa Almanzo Wilder, hơn cô rất nhiều tuổi và là em cô giáo Laura. Họ từ chỗ hờ hững tới cảm mến nhau, rồi kết hôn. Laura kế nhiệm chị dâu để dạy trường Walnut Grove.
Phần 4 : 161 ⇀ 202
Bà Harriet nhận nuôi cô bé mồ côi Nancy Oleson, kẻ có tính cách rất ngỗ ngược. Tuyến truyện hầu như tập trung vào đôi nhân vật Jenny Wilder và Nancy Oleson.
Giá bây giờ có cuốn nhật kí, tôi sẽ ghi lại cái khoảnh khắc gia đình tới Plum Creek, và được ngắm ngôi nhà trên thửa đất. Tôi nhớ như in cha và bác Hanson vừa đi vừa hàn huyên, còn chị em tôi cứ thắc mắc là truyện gì (If I had a remembrance book, I would surely write about the day we came to Plum Creek and first saw the house in the ground. I can remember Pa and Mr. Hanson and how they walked and looked and talked and how we wondered what they said).
”
— Tựa
Kĩ thuật
Bộ phim được thực hiện chủ yếu tại Old Tucson Studios (Arizona), thường được ví là nốt thăng cuối cùng trong lịch sử phim trường này trước khi dòng phim Viễn Tây mất hẳn thị phần. Tổng đạo diễn Michael Landon đã rắp tâm biến trường quay thành không gian đậm chất gia đình để dàn diễn viên đông đảo cảm thấy gần gũi nhau và nỗ lực hoàn thành trách nhiệm hơn.
Sản xuất
Biên kịch : Blanche Hanalis[6][7], Michael Landon, Don Balluck, John T. Dugan, Arthur Heinemann, Arthur Heinemann, John Hawkins, Carole Raschella, Michael Raschella, B. W. Sandefur, Chris Abbott, Vince Gutierrez, Ward Hawkins, Paul W. Cooper, Harold Swanton, Gerry Day, Dale Eunson, Tony Kayden, Joseph Bonaduce, Juanita Bartlett, Hindi Brooks, John Meston, Preston Wood, Lawrence Konner, Del Reisman, Paul Wolff, Jeri Taylor, Joel Murcott, William Putman, Jean Rouverol, Michael Russnow, Ann Beckett, Rocci Chatfield, Ray Goldrup, William Keys, Byron Twiggs, Ernie Durham, John V. Hanrahan, Robert Vincent Wright, Bradley Berwick, Ray Berwick, Ron Chiniquy, Robert Janes, Richalene Kelsay, Robert F. Metzler, Scott Swanton, Kenneth Hunter, Larry Bischof, Kathleen McGhee-Anderson, Pamela Balluck, Peter Dixon, Larry Jensen, Duke Sandefur, Ernie Wallengren, Ande Lamb
Tuyển trạch : Susan McCray, Edward R. Morse
Điều phối : Walter M. Jefferies, Trevor Williams, George Renne
Trang trí : Donald E. Webb, Dennis W. Peeples, Morris Hoffman, Sam Gross, John M. Dwyer
Năm 1976, vai Caroline Quiner Ingalls ban đầu được giao cho nữ tài tử vô danh Hersha Parady, nhưng ở phút chót đạo diễn Michael Landon chuyển cho minh tinhsân khấuKaren Grassle. Tuy nhiên, ông an ủi bà bằng vai nhỏ là chị họ Eliza Anne Ingalls xuất hiện thoảng qua ở tập 01. Sang năm 1977, Hersha Parady tái xuất với vai chị láng giềng Alice Garvey. Cái chết của nhân vật Alice gây bao tiếc nuối cho khán giả, nhưng đồng thời vai diễn này đưa bà Hersha Parady tới đỉnh cao sự nghiệp. Bà đặt tên con là Jonathan theo nhân vật Jonathan Garvey trong phim.
Quá trình quay phim gây mối thâm tình bền vững giữa đạo diễn Michael Landon và nữ tài tửMelissa Gilbert. Ông nhận cô làm con nuôi để bù đắp những thiếu thốn tình cảm ruột thịt của cô.
Nhân vật Willie Oleson thường xuyên bị đứng góc lớp (bên trái bục giảng) vì tội nói leo, tới mức cậu ta coi đó là chỗ dành riêng cho mình. Trong phim, Willie thường gây hiềm khích với Mary và Laura, nhưng ngoài đời tài tửJonathan Gilbert là em ruột minh tinhMelissa Gilbert.
Trong các cuộc phỏng vấn của truyền thông, nữ minh tinhAlison Arngrim thừa nhận việc tham gia Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên đã cứu cuộc đời bà khỏi trạng thái trầm cảm lâu dài. Bà quyết định dành cả đời làm thiện nguyện và công tác xã hội.
Vai Carrie và Grace đều do các chị em sinh đôi thay nhau đảm nhiệm vì tuổi nhân vật quá bé khiến một diễn viên không thể gánh nổi.
Nhà biên kịch đã khéo cài nhiều nhân vật và tình tiết có thật trong lịch sử Mỹ vào bộ phim, khiến càng về sau không thuần túy chỉ là chuyển thể nữa mà khái quát hóa một giai đoạn vô cùng sôi động của xã hộiMỹ. Từ anh em Jesse-Frank James và Robert Ford (thành bạn học Mary Ingalls) tới ông trùm KFCHarland David Sanders (trong cảnh bị bà Oleson hắt hủi khi ghé ngang Walnut Grove để quảng bá công thức gà rán mà ông vừa nghĩ ra).
Kể từ năm 1983 cho tới thời điểm 2020, Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên đứng nguyên vị trí là xuất phẩm điện ảnhtruyền hình có nhân sự hùng hậu nhất thế giới, tuy rằng chi phí sản xuất và phương tiện kĩ thuật bấy giờ còn rất hạn chế.
Tuy nhiên, sự thành công lớn nhất của bộ phim vẫn là cảm xúc dành cho khán giả giữa bối cảnh thế giới (đặc biệt là Mỹ) tang thương vì chiến tranh, xung đột sắc tộc và tín ngưỡng. Phim tiếp cận cuộc đời bằng cái nhìn chậm rãi, đậm tính chiêm nghiệm và cố ý khắc họa một giai đoạn lịch sử hào hùng của nước Mỹ. Giới phê bình cũng chỉ trích bộ phim thi vị hóa cuộc đấu tranh sắc tộc, chính kiến và thuần hóa thiên nhiên ở Mỹthế kỷ XIX mà trong thực tế khắc nghiệt gấp bội phần.
Đối với các nhân vật góp mặt từ ít tới nhiều trong bộ phim, việc được tham gia đã là vinh dự trọn đời. Một số tài tử thậm chí soạn hồi ký kể lại những ngày làm việc trên trường quay Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên, có những người cả đời không thoát khỏi cái bóng của vai diễn trong xuất phẩm này. Hầu như năm nào các kênh truyền hìnhBắc Mỹ cũng mở chương trình hội ngộ dàn diễn viên Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên để đáp ứng thị hiếu của đông đảo người hâm mộ.
Mãi hai chục năm sau, Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên mới được Đài Truyền hình Việt Nam mua bản quyền công chiếu ở khung 18:00 những năm 1996-7 trên kênh VTV1 (từ 1998 tách thành VTV1 và VTV3), qua giọng thuyết minh Kim Tiến và Minh Trí. Bộ phim chóng chiếm được cảm tình của khán giả Việt Nam bởi nội dung tương đối thiết thực với bối cảnh xã hộiViệt Namthập niên 1990, từ truyện gia đình tới truyện học đường, từ việc mưu sinh tới việc hôn nhân. Sau khi phim chiếu tập cuối, thể thư yêu cầu của số đông khán giả, Đài Truyền hình Việt Nam phải tái thương lượng với đối tác Mỹ để chiếu lần nữa ở khung 10:00 hàng ngày, trừ thứ Bảy và Chủ Nhật.
Năm 2018, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Truyền thông Purpose tiến hành mua bản quyền 10 năm để phát liên tục trên các kênh HTV3 - DreamsTV và VTC3 dưới dạng lồng tiếng Nam Bộ.
Vào năm 2020, hãng NBC đã tiến hành công tác phục chế chất lượng băng gốc rồi đẩy lên định dạng 4K để đem lại cảm giác hoàn toàn mới mẻ sinh động cho lớp khán giả trẻ.[9]
Vinh dự
1976: TP de Oro, Tây Ban Nha, Mejor Actriz Extranjera (Best Foreign Actress), Karen Grassle [10]
1978: Emmy Award for Outstanding Cinematography in Entertainment Programming for a Series, Ted Voigtlander, episode "The Fighter"[11]
1979: Emmy Award for Outstanding Cinematography for a Series, Ted Voigtlander, episode "The Craftsman"[11]
1979: Emmy Award for Outstanding Music Composition for a Series, David Rose, episode "The Craftsman"
1980: TP de Oro, Tây Ban Nha, Mejor Actriz Extranjera (Best Foreign Actress), Melissa Sue Anderson [12]
1981: Western Writers of America Spur Award for Best TV Script, Michael Landon, episode "May We Make Them Proud"
1982: Emmy Award for Outstanding Achievement in Music Composition for a Series (Dramatic Underscore), David Rose, episode "He Was Only Twelve" (Part 2)
^Friendly, Natalie (1998). The Friendly Family: The Descendants of the Freundlichs of Bavaria. Boston, Massachusetts: Newbury Street Press. tr. 197–210. ISBN0-88082-079-9.
^Friendly, Natalie (1998). The Friendly Family: The Descendents of the Freundlichs of Bavaria. Boston, Massachusetts: Newbury Street Press. tr. 197–210. ISBN0-88082-079-9.