Do ông là người có tài điều khiển và không dính líu với các đảng phái chính trị, Bismarck đã từng coi Caprivi là người kế nhiệm có tiềm năng của mình. Và, vào ngày 20 tháng 3 năm 1890, Caprivi được phong làm Thủ tướng của Đức và Phổ, đồng thời là Bộ trưởng Ngoại giao. Ông giữ ghế Thủ tướng Đức cho đến tháng 10 năm 1894. Dưới thời ông, bộ luật chống xã hội chủ nghĩa bị bãi bỏ và việc phục vụ quân ngũ được cắt ngắn từ 3 năm xuống 2 năm.[2] Ngoài ra, như một phần thuộc "đường lối mới" của Đức hoàngWilhelm II, Caprivi đã từ bỏ chính sách phối hợp về quân sự, kinh tế và tư tưởng với Nga với Bismarck, và không thể hình thành mối quan hệ chặt chẽ với Anh. Ông đã đàm phán các hiệp ướcthương mại và chú trọng tái cấu trúc nền quân sự Đức.
Sau khi cuộc chiến tranh chấm dứt, ông đã phục vụ trong Bộ Chiến tranh Phổ. Vào năm 1882, ông được lãnh chức Sư trưởng của Sư đoànBộ binh số 30 tại Metz.[3] Vào năm 1883, ông kế nhiệm Albrecht von Stosch, một đối thủ gay gắt của Thủ tướng Bismarck, làm Bộ trưởng Bộ Hải quân Đức. Việc Bismarck ủy nhiệm ông làm Bộ trưởng Hải quyan6 đã gây bất mãn lớn trong đội ngũ sĩ quan hải quân. Tuy nhiên, Caprivi đã thể hiện đáng kể tài năng quản lý của mình khi giữ chức vụ này.[3]
Những bất đồng của Caprivi với chính sách hải quân của Hoàng đếWilhelm I đã dẫn đến sự từ chức của ông vào năm 1888. Trong một thời gian ngắn, ông được bổ nhiệm làm tư lệnh của quân đoàn cũ của mình, Quân đoàn X đặt doanh trại tại Hanover, trước khi được Hoàng đế Wilhelm II triệu hồi về kinh thànhBerlin vào tháng 2 năm 1890. Caprivi được biết rằng Đức hoàng có dự kiến cử ông thay thế Bismarck nếu như vị "Thủ tướng Sắt và Máu" phản kháng những thay đổi đối với chính phủ mà Wilhelm đề xuất, và sau khi Bismarck bị sa thải vào ngày 18 tháng 3, Caprivi nhậm chức Thủ tướng.
Thủ tướng Đức
Thời kỳ cầm quyền của Caprivi mang dấu ấn của cái mà các nhà sử học gọi là Đường lối mới (Neuer Kurs)[4] về cả chính sách đối ngoại lẫn đối nội, với các hoạt động hướng đến sự hòa giải của Đảng Dân chủ Xã hội về đối nội, và hướng đến một chính sách đối ngoại thân Anh, được cụ thể hóa bởi Hiệp định Anh-Đức vào tháng 7 năm 1890, theo đó người Anh nhượng Heligoland cho Đức để đổi lấy quyền kiểm soát Zanzibar. Sự kiện này đã gây phẫn nộ cho các tổ chức có chủ trương đẩy mạnh chủ nghĩa thực dân như Liên minh Đại Đức (Alldeutscher Verband), trong khi chính sách tự do thương mại của Caprivi đã dẫn tới sự đối kháng từ những người bảo thủ theo chủ nghĩa bảo hộ nông nghiệp. Hiệp ước cũng mang lại cho Đức dải Caprivi (Caprivizipfel), dải đất đã được thêm vào lãnh thổ Tây Nam Phi thuộc Đức, nhờ đó xứ thuộc địa Tây Nam Phi được nối liền với sông Zambezi, mà ông hy vọng sử dụng với mục đích giao thương và giao lưu với Đông Phi. Điều đáng tiếc là thuyền bè không thể đi lại được trên con sông lớn này. Ông phản đối những ý tưởng về một cuộc chiến tranh đề phòng với Nga mà tướng Alfred von Waldersee đã đề ra, tuy nhiên ông đồng thuận với quyết định của Đức hoàng Wilhelm II và các đại thần có cùng khuynh hướng trong Văn phòng Ngoại giao mà tiêu biểu là Friedrich von Holstein về việc bãi bỏ Mật ước tái cam kết mà Bismarck đã ký với Nga vào năm 1887, và điều này đã thúc đẩy Nga thiết lập liên minh với Pháp.
Sự chống đối của Đảng Bảo thủ đối với Chính phủ Caprivi gia tăng, kèm theo những cuộc công kích công khai không ngừng nghỉ của cựu Thủ tướng Bismarck. Caprivi cũng đánh mất sự ủng hộ của Đảng Tự do Quốc gia và Đảng Tiến Bộ trong một thất bại lập pháp vào năm 1892 khi ông cổ vũ Bộ trưởng Giáo dục Phổ đề xuất Đạo luật trường học, theo đó một số đặc quyền của Giáo hội Công giáo được khôi phục. Đây là một nỗ lực bất thành nhằm khôi phục cho Đảng Trung tâm (theo Công giáo) sau khi Bismarck sung công tài sản của Nhà thờ và hạn chế vai trò của Nhà thờ trong nền giáo dục trong cuộc Đấu tranh Văn hóa (Kulturkampf) của ông. Caprivi, mặc dù là một tín đồ Kháng Cách, cần có 100 phiếu của Đảng Trung tâm Công giáo nhưng điều đó đã gây cho các nhà chính trị theo Kháng Cách hãi hùng. Thậm chí nhiều người bảo thủ và một số người theo Đảng Dân chủ Xã hội cũng phản đối đạo luật này.[5][6] Caprivi bị buộc phải từ chức Thủ tướng Phổ và được thay thế bởi Bá tước Botho zu Eulenburg, dẫn đến một sự chia rẽ quyền lực khó lường giữa Thủ tướng Đức và Thủ tướng, và điều này cuối cùng dẫn đến việc cả hai ông bị sa thải vào năm 1894. Đức hoàng cử Vương công Chlodwig von Hohenlohe-Schillingsfürst làm tân Thủ tướng của Phổ và Đế quốc Đức.
Những thành tựu cơ bản của ông là các đạo luật quân đội năm 1892 và 1893, cùng với hiệp định thương mại được ký kết với Nga vào năm 1894.[3]
Chú thích
^Chú ý đến tên gọi của ông: Graf là một tước hiệu, tương đương với Bá tước, chứ không phải là một tên riêng hoặc tên lót. Trước năm 1919, tước hiệu nằm ở phía trước tên riêng. Tước hiệu cũ của những người còn sống sau năm 1919 là thành phần thuộc tên họ, do đó nằm phía sau tên thánh và không thể được dịch. Tước vị tương đương với Nữ Bá tước là Gräfin.
Sempell, Charlotte. "The Constitutional and Political Problems of the Second Chancellor, Leo Von Caprivi," Journal of Modern History, (Sept 1953) 25#3 pp 234–254, in JSTOR
Sontag, Raymond James. Germany and England: Background of Conflict, 1848-1894 (1938) ch 9