Ngày nay, di sản văn họcPhần Lan được san xẻ chung giữa Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan, Nga và Estonia, được coi như bộ phận rất quan trọng cấu thành văn hóa mỗi quốc gia đó. Tại Latvia, Lietuva, Belarus và Ba Lan, thậm chí Komi từ đầu thập niên 1990 đã diễn ra những tranh luận sôi nổi trong vấn đề có hay không công nhận dòng văn họcPhần Lan từng tồn tại trong diễn trình lịch sửvăn học xứ mình, nhiều quan điểm cho rằng đã tới lúc cần chấp nhận nó là một đặc tính bản địa thay vì coi là ngoại lai, và phải làm bản chất chứ không phải hiện tượng nữa.[16][17]
Văn học dân gian vốn hàm nghĩa một nền văn học nào đó đã được truyền tụng trong không gian rất rộng và có lịch sử vô cùng phức tạp.[18] Mặc dù có vài chứng tích cho thấy văn họccổ đạiPhần Lan đã có lúc được kí âm bằng những tự dạng bản địa và thậm chí còn lưu danh trạng tác giả, nhưng dường như hiện tượng đó không mấy phổ biến.[19]Phần Lan san xẻ hệ thống hình tượng huyền thoại đôi chỗ khá giống những gì đã diễn ra tại Na Uy, Thụy Điển, Nga và thậm chí Cymru, nhưng ít đồ sộ bằng và thường được coi là vùng văn học giao thoa Bắc–Đông Âu.[20][21]
Theo dữ liệu của FILI, mỗi năm có từ 300-400 văn phẩm Phần Lan được dịch ra khoảng 40 ngôn ngữ. Doanh thu từ việc bán bản quyền của các nhà xuất bản và các công ty phát hành Phần Lan trong 4 năm đầu thập niên 2010 đã liên tục tăng, đạt trên dưới 2 triệu euro/năm (năm 2014 là 2.2 triệu, năm 2013 là 2.25 triệu, năm 2012 là 1.98 triệu và năm 2011 là 1.26 triệu). Thị trường xuất khẩu sách lớn nhất của Phần Lan là Đức, Anh, Mỹ và Liên bang Nga.
Không giống như nhiều sử thi đã vang danh từ cổ đại, Kalevala không phải là một sử thi được tái tạo lại từ những mảnh vụn của một sử thi cổ bị tan vỡ theo thời gian. Kalevala do giáo sư, bác sĩ, nhà ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu dân tộc học và văn hóadân gian nổi tiếng Phần Lan là Elias Lönnrot (1802 - 1884) biên soạn dựa trên những bài phú, ca dao, đồng thoại, truyền thuyếtdân gian lâu đời tản mát ở Phần Lan và Karjala.[28] Ông và các đồng nghiệp đã đi sưu tầm trên đất Phần Lan và ngược lên cả vùng Viena (Karjala Trắng).[29]Kalevala xuất bản lần đầu vào năm 1835, gồm 12.078 câu thơ, chia làm 35 khúc (ngày nay được gọi là Kalevala cựu thư[30]) và lần thứ hai năm 1849 với 22.795 câu thơ, được chia làm 50 khúc (gọi là Kalevala tân thư[31]). Kalevala mới (được coi là bản Kalevala trọn vẹn nhất) là kết quả 15 năm làm việc với 11 chuyến sưu tầm điền dã của riêng Elias Lönnrot.[32] Ngày nay, ở Phần Lan cũng như hải ngoại, khi nói về Kalevala giới nghiên cứu vẫn chỉ nói đến Kalevala bộ mới. Kalevala là bách khoa thư về lịch sử và dân tộcPhần Lan được biên soạn theo thể thơ truyền thống, mỗi câu gồm 8 âm tiết (hay 8 nhịp) của người Phần Lan, dựa theo làn điệu của âm nhạc dân gian.[33] Khi Kalevala chưa ra đời, thể thơ này không có tên. Vì thế sau khi Kalevala xuất bản, thể thơ này được gọi là Thi điệu Kalevala.[34][35] Đồng thời cũng từ đó việc sưu tầm văn học dân gianPhần Lan nhanh chóng lan rộng và nguồn tư liệu sưu tầm được đã trở nên hết sức phong phú. Trong vòng 15 giữa hai bản Kalevala, Lönnrot cùng các cộng sự sưu tập được thêm gần 130.000 câu thơ. Với nguồn tư liệu này Elias Lönnrot đã phát biểu rằng có thể biên soạn thành 7 bản Kalevala khác nhau mà Kalevala tân thư như ngày nay chỉ là một trong số đó. Còn có Kanteletar được coi là tác phẩm phái sinh của Kalevala, do tác giả Elias Lönnrot công bố năm 1840.[36][37]
Sau khi Kalevala san hành, một phong trào "tìm về bản sắc" đã lan rộng ở khắp cõi Phần Lan.[38][39] Nhiều nhà nghiên cứu, giảng viên, sinh viên và những người yêu thích văn hóa dân gian đã theo dấu chân ông đi sưu tầm tư liệu ở phía Đông Phần Lan và KarjalaNga để sưu tầm văn học dân gian còn ẩn tàng ở những vùng này.[40][41] Bên cạnh hai bản Kalevala cũ mới, năm 1862 Elias Lönnrot còn rút gọn Kalevala mới thành một bản Kalevala ngắn với 9.732 câu dành cho thanh thiếu niên, được gọi là Kalevala học đường. Văn bản này được Bộ Giáo Dục Tô Liên chọn đưa vào chương trình giáo khoa trung học.
Bối cảnh sử thi là thuở hồng hoang, chủ yếu xoay quanh những tranh đấu trường kì giữa hai chủng tộc Kalevala và Pohjala. Thực tế, người Kalevala được khắc họa là giống dân thuần nông, định cư ở miền ấm và thường bị người Pohjala từ cực Bắc lạnh giá xuống quấy quả.
Đại diện dân Kalevala là các tráng sĩ giai nhân tận tụy với sự tồn vong của bản quán, ngược lại, miền Pohjala chỉ toàn yêu quỷ dưới sự điều khiển của bà chúa Louhi hiểm ác. Nhưng cả hai chủng tộc này đều chịu sự sai khiến của thần Thái Dương vĩnh hằng.
Trinh nữ Ilmatar gặp gió và biển mà thụ thai, sinh ra một quả trứng lênh đênh giữa đại dương. Có một con vịt mắt vàng ngẫu nhiên đạp tan trứng. Vỏ trứng biến ra trời đất, trăng sao và các vừng mây. Väinämöinen thoát khỏi trứng nhưng cứ bồng bềnh trên biển chín năm ròng, sau rốt cũng chạm đất liền.
Väinämöinen mới gọi Sampsa Pellervoinen đi gieo hột khắp cõi, rồi trồng một gốc sồi đứng vững đến ngàn năm. Thuở ấy Joukahainen đố kị tiếng đàn kantele của Väinämöinen, nên thách đấu Väinämöinen bằng giọng ca của mình. Joukahainen địch không lại Väinämöinen, bèn gả em gái Aino cho chàng rồi dọn mưu hãm hại. Joukahainen thua chạy đến Pohjola, bèn hợp với bà chúa Louhi để báo cừu hằng năm.
Lemminkäinen thầm thương ngọc nữ Kyllikki nên xin mẹ cho đi cướp nàng về làm vợ. Nhưng ở với nhau không bao lâu thì Kyllikki có tư tình. Đương lúc Lemminkäinen giận lẫy Kyllikki, bà chúa Louhi bèn hóa con nai sừng tấmHiisi quyến dỗ rồi bắt nàng về Pohjola.
Lemminkäinen phải lên đường đi chuộc vợ. Chàng phải chấp nhận những thách đố khôn cùng của chúa tể phương Bắc.
Väinämöinen ngỏ ý cầu hôn lệnh ái đẹp tuyệt trần nhà bà chúa Louhi, nhưng Louhi cũng ra nhiều điều kiện khó lường khiến Väinämöinen thua thảm hại.[43][44]
Väinämöinen kết nghĩa với Lemminkäinen và Ilmarinen để chinh phục thách đố. Cuối cùng bàn tay người con gái bà chúa Louhi về với Ilmarinen, Väinämöinen và Lemminkäinen chúc phúc cho họ. Ilmarinen gả em gái là Annikki cho Lemminkäinen.
Nhiều năm trôi qua, mục tử Kullervo bị bán làm nô lệ cho nhà Ilmarinen. Cậu bé ngoan ngạnh này đón biến năm xưa bộ lạc Ilmarinen đã sát hại gia đình mình, bèn ám hại vợ Ilmarinen để trả thù. Kullervo đại thắng Ilmarinen, nhưng phải tự sát khi biết nhìn lầm người.
Ilmarinen mất vợ, bèn đúc vợ mới bằng vàng bạc, nhưng đó chỉ là cô dâu vô tri lạnh như băng. Chàng lại cất công lên Pohjola cầu hôn lệnh nữ khác của bà chúa Louhi.
Ilmarinen và Lemminkäinen cướp Sampo về khiến Kalevala ngày càng thịnh vượng. Louhi mất của nên tức khí cướp mặt trờimặt trăng về giấu ở phương Bắc. Từ đó Kalevala chìm trong tối tăm buốt giá. Väinämöinen bảo Ilmarinen rèn chìa khóa để đi giành lại giời giăng.
Thêm nhiều năm nữa, thiếu nữ Marjatta[45] bỗng thèm có con, bèn nuốt quả dâu tây và thụ thai. Đứa bé bị bắt cóc ngay sau đó. Marjatta nhờ ông sáng hồng mới biết nó nằm trong đầm lầy. Virokannas hành lễ tẩy cho đứa trẻ làm đấng tể trị hợp pháp cho toàn Kalevala.
Väinämöinen biết mình đã già và không còn uy lực như xưa nữa, nên gảy khúc kantele cuối cùng rồi rời Kalevala trên chiếc thuyền độc mộc bằng gỗsồi cổ thụ.
Pohjola
Väinölä (Kalevala maa)
Tuonela
Ahtola
(Bắc Cực) Rặng núi Tây Bắc quanh năm buốt giá mù sương
(Trung Nguyên) Quê hương các tráng sĩ và tuyệt sắc giai nhân
(Sông) Khoảng nước tối ở Tây Vực dẫn người sống tới cõi chết
(Biển) Khoảng nước sáng ở Đông Bộ giữa Pohjola và Kalevala
Cho đến nay Kalevala vẫn là tác phẩm tiêu biểu nhất của văn họcPhần Lan đóng góp vào kho tàng văn họcnhân loại và được dịch ra nhiều ngôn ngữ nhất của văn học nước này.[46] Đến thời điểm 2023, Kalevala đã được dịch sang cả thảy 60 thứ tiếng trên thế giới,[47] trong đó nhiều ngôn ngữ đã dịch nhiều lần dưới nhiều hình thức rất khác biệt : Thụy Điển (22), Anh (21 bản), Đức (14), Nhật (14), Estonia (14), Tây Ban Nha (12), Nga (10). Riêng tiếng Việt, Kalevala cũng đã có 3 bản dịch khác nhau, trong đó có 2 bản lược thuật bằng văn xuôi (của Nguyễn Xuân Nghiệp, Hoàng Thái Anh) và 1 bản dịch trọn vẹn bằng thơ xuất bản năm 1994 (của Bùi Việt Hoa).
The most famous collection of folk poetry is by far the Kalevala. Referred to as the Finnish "national epic" it is mainly credited to Elias Lönnrot, who compiled the volume. It was first published in 1835 and quickly became a symbol of Finnish nationalism. Finland was then politically controlled by Russia and had previously been part of Sweden. The Kalevala was therefore an important part of early Finnish identity. Beside the collection of lyric poems known as the Kanteletar it has been and still is a major influence on art and music, as in the case of Jean Sibelius. It is a common misconception that Lönnrot merely "collected" pre-existing poetry. It is now widely accepted that the Kalevala represents an amalgam of loosely connected source materials, freely altered by Lönnrot to present the appearance of a unified whole. Nationalism was a central force in the history of Finland starting in the 19th century. The Finnish national awakening in the mid-19th century was the result of members of the Swedish-speaking upper classes deliberately choosing to promote Finnish culture and language as a means of nation building—i.e. to establish a feeling of unity between all people in Finland including (and not of least importance) between the ruling elite and the ruled peasantry. The publication in 1835 of the Finnish national epic, the Kalevala, a collection of traditional myths and legends which is the folklore common to the Finns and to the Karelian people (the FinnicRussian Orthodox people who inhabit the Lake Ladoga-region of eastern Finland and present-day NW Russia), stirred the nationalism that later led to Finland's independence from Russia.
Kalevala đã trở thành một trong những biểu tượng văn hóa quan trọng nhất của nước Phần Lan hiện đại. Với Kalevala, người Phần Lan vẫn cho rằng dân tộc mình cũng có một lịch sử và một nét phong hóa riêng : "Với những khúc ca bất tử này trong hành trang, người Phần Lan đã có thể dũng cảm và tự tin nhìn về quá khứ của mình và có thể nhìn ra được tương lai của dân tộc. Người Phần Lan đã có thể kiêu hãnh nói : Tôi cũng có một lịch sử !" (J. G. Linsen, 1835).[58][59] Đồng thời Kalevala được coi là chiếc cầu nối Phần Lan với thế giới bên ngoài : "Khi làm nên Kalevala, nhân dân Phần Lan đã làm cho mình một con đường xuyên qua núi đá cheo leo, không những chỉ tiến đến Âu châu mà đến cả thế giới văn minh. Kalevala sáng chói như Bắc Đẩu trên trời cao, kể cho toàn nhân loại nghe về bộ tộc Phần Lan" (M. J. Eisen, 1909).[60][61][62]
Kalevala còn là đề tài và là nguồn cảm hứng sáng tạo cho rất nhiều thế hệ văn nghệ sĩ Phần Lan cũng như ngoại nhân.[63] Rất nhiều cơ quan và tổ chức Phần Lan cũng như quốc tế đã lấy Kalevala cũng như tên gọi các nhân vật trong Kalevala làm tên gọi cho mình. Rất nhiều đường, phố ở các thành phố, địa phương trên khắp Phần Lan mang tên các nhân vật và địa danh trong Kalevala.[64][65] Sau khi ra đời, Kalevala đã nhanh chóng gây sự chú ý của người ngoại quốc và các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu nó như là một trứ tác thuộc thi ca dân gian chân thực.
Từ năm 1950, ngày 28 tháng 2 năm 1835 – ngày Elias Lönnrot đề danh dưới lời tựa Kalevala cựu thư đã trở thành Ngày Kalevala (Kalevalan päivä) và được coi là một ngày lễ không chính thức tại Phần Lan. Từ năm 1978, Ngày Kalevala được nâng lên làm Ngày Văn Hóa Phần Lan và đã được nghị viện quy định là một kì nghỉ chính thức phổ cập trên phạm vi toàn quốc.[66][67] Trên thế giới có lẽ hiếm quốc gia khác giống như Phần Lan : Lấy ngày ra đời của một tác phẩm văn học làm ngày lễ lớn của dân tộc. Hằng năm cứ nhằm ngày này toàn quốc phải trương quốc kỳ và tổ chức các hoạt động văn hóa có liên đới Kalevala.[68] Ở Phần Lan, bên cạnh Hội Kalevala còn có Juminkeko là một cơ quan chuyên về sưu tầm, nghiên cứu Kalevala và bảo tồn, phát triển các di sản văn hóa miền Viena, cái nôi của Kalevala.[69][70]Juminkeko cũng thực hiện nhiều dự án nhằm khôi phục lại các làng thơ Viena, một trong số đó vừa nhận được giải thưởng bảo tồn văn hóa EU năm 2006.[71][72][73]
Sau khi Đệ nhị Thế chiến vừa kết thúc, quan hệ song phương Tô Liên - Phần Lan phục hồi, kiệt tác Kalevala được chính phủLiên bang Soviet công nhận là di sản tinh thần của cộng đồng các dân tộc trên toàn liên minh.[74] Tác phẩm được đưa vào chương trình giáo dục thanh thiếu niên do Bộ Văn Hóa tán trợ, lại được các nhà hát và hãng phim chuyển thể thành nghệ thuật trình diễn.[75][76]
^Tapani Salminen, "The rise of the Finno-Ugric language family." In Carpelan, Parpola, & Koskikallio (eds.), Early contacts between Uralic and Indo-European: linguistic and archaeological considerations. Mémoires de la Société Finno-Ougrienne 242; Helsinki 2001. 385–396.[1]Lưu trữ 30 tháng 8 năm 2017 tại Wayback Machine
^Aikio, Ante (2019). “Proto-Uralic”. Trong Bakró-Nagy, Marianne; Laakso, Johanna; Skribnik, Elena (biên tập). Oxford Guide to the Uralic Languages. Oxford, UK: Oxford University Press. tr. 1–4. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2020.
^Sihvo, Hannes. “Kivi, Aleksis (1834 - 1872)”. The National Biography of Finland. SKS. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2016.
^“Juhani Aho”. Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2016.
^Cf. Derek Fewster, Visions of Past Glory : Nationalism and the Construction of Early Finnish History. Studia Fennica Historica 11 (Helsinki: Suomalainen Kirjallisuuden Seura, 2006).
^Paasikivi, Jyrki; Talka, Anu (2018). Rajamaa - Etelä Karjalan Historia I (bằng tiếng Phần Lan). Keuruu: Otavan Kirjapaino Oy. tr. 47, 162. ISBN978-951-37-7468-4.
^Krogerus, Tellervo. “Canth, Minna (1844 - 1897)”. The National Biography of Finland. Suomalaisen Kirjallisuuden Seura. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2016.
^Nevala, Marja-Liisa. “Leino, Eino (1878 - 1926)”. The National Biography of Finland. Suomalaisen Kirjallisuuden Seura. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2016.
^George C. Schoolfield 1998: A History of Finland's Literature. 877 pages. University of Nebraska Press. ISBN9780803241893
^Rekunen, Jorma; Yli-Luukko, Eeva; Jaakko Yli-Paavola (19 tháng 3 năm 2007). “Eurajoen murre”. Kauden murre (online publication : samples of Finnish dialects) (bằng tiếng Phần Lan). Kotus (The Research Institute for the Languages of Finland). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2007. "θ on sama äänne kuin th englannin sanassa thing. ð sama äänne kuin th englannin sanassa this.
^Aikio, Ante (24 tháng 3 năm 2022). “Chapter 1: Proto-Uralic”. Trong Bakró-Nagy, Marianne; Laakso, Johanna; Skribnik, Elena (biên tập). The Oxford Guide to the Uralic Languages. Oxford University Press. ISBN9780198767664. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2020.
^Yrjö Hirn, Matkamiehiä ja tietäjiä. Tutkielmia suomalaisesta sivistyksestä ja Kalevala-romantiikasta. Otava. Helsinki 1939
^Nordlund, Taru (13 tháng 1 năm 2012), Baddeley, Susan; Voeste, Anja (biên tập), “Standardization of Finnish orthography: From reformists to national awakeners”, Orthographies in Early Modern Europe, Berlin, Boston: DE GRUYTER, tr. 351–372, doi:10.1515/9783110288179.351, ISBN978-3-11-028817-9
^Paasikivi, Jyrki; Talka, Anu (2018). Rajamaa - Etelä Karjalan Historia I (bằng tiếng Phần Lan). Keuruu: Otavan Kirjapaino Oy. tr. 186, 188. ISBN978-951-37-7468-4.
^Encyclopedia of Religion and Ethics, Part 14, by James Hastings, p. 642).
^Lauri Honko, Religion, Myth, and Folklore in the World's Epics: The Kalevala and Its Predecessors, published by Walter de Gruyter, 1990, ISBN3-11-012253-7
^Paasikivi, Jyrki; Talka, Anu (2018). Rajamaa - Etelä Karjalan Historia I (bằng tiếng Phần Lan). Keuruu: Otavan Kirjapaino Oy. tr. 170–171, 192. ISBN978-951-37-7468-4.
^Jussila, Osmo (tháng 1 năm 1977). “Nationalism and revolution: Political dividing lines in the Grand Duchy of Finland during the last years of Russian rule”. Scandinavian Journal of History. 2 (1–4): 289–309. doi:10.1080/03468757708578924.
^Francis Peabody Magoun, Jr. "The Kalevala or Poems of the Kaleva district" Appendix II. (1963).
^Honko, Lauri (1990). “The Kalevela: The Processual View”. Trong Lauri Honko (biên tập). Religion, Myth and Folklore in the World's Epics: The Kalevala and its Predecessors. Walter de Gruyter. tr. 181–230. ISBN978-3-11-087455-6.
^Alhoniemi, Pirkko (1990). “The Reception of the Kalevela and Its Impact on the Arts”. Trong Lauri Honko (biên tập). Religion, Myth and Folklore in the World's Epics: The Kalevala and its Predecessors. Walter de Gruyter. tr. 231–246. ISBN978-3-11-087455-6.
^Liukkonen, Petri. “Emil Nestor Setälä”. Books and Writers (kirjasto.sci.fi). Finland: Kuusankoski Public Library. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2014.
^Eemil Nestor Setälä. "Sammon arvoitus: Isien runous ja usko: 1. "Suomen suku" laitoksen julkaisuja. 1." Helsinki: Otava, 1932..
^Oja, Heikki (2007). Aikakirja 2007(PDF). Helsinki: Helsingin yliopiston almanakkatoimisto. tr. 184. ISBN 952-10-3221-9. Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
Cavazzano, Giorgio; Korhonen, Kari (2022), The Harp Under the Hammer, a sequel for Don Rosa's The Quest for Kalevala featuring Scrooge McDuck and some characters from the Kalevala
Branch, Michael; Hawkesworth, Celia biên tập (1994), The Uses of Tradition: a Comparative Enquiry into the Nature, Uses and Functions of Oral Poetry in the Balkans, the Baltic and Africa, ISBN978-0-903425-38-4
Haavio, Martti Henrikki (1952), Väinämöinen, Eternal Sage
Hämäläinen, Niina (tháng 12 năm 2013), “"Do Not, Folk of the Future, Bring up a Child Crookedly!": Moral Intervention and Other Textual Practices by Elias Lönnrot”, RMN Newsletter, 7: 43–56
Honko, Lauri biên tập (1990), Religion, Myth, and Folklore in the World's Epics, ISBN978-0-89925-625-2
Setälä, E.N. (1932), Sammon Arvoitus [The Riddle of the Sampo]
Siikala, Anna-Leena. "The Kalevalaic Tradition as Finnish Mythology". In: Ethnographica et Folkloristica Carpathica, 12–13 (2002). Megjelent: Mental Spaces and Ritual Traditions pp. 107–122
Tolley, Clive. "The Kalevala as a Model for our Understanding of the Composition of the Codex Regius of the Poetic Edda." The Retrospective Methods Network (2014).
Wilson, William A. (1976), Folklore and Nationalism in Modern Finland, ISBN978-0-253-32327-9
Coleman, Michael C. (tháng 3 năm 2010). “'You Might All Be Speaking Swedish Today': Language Change in 19th-century Finland and Ireland”. Scandinavian Journal of History. 35 (1): 44–64. doi:10.1080/03468750903315215.
Hult, F.M., & Pietikäinen, S. (2014). "Shaping discourses of multilingualism through a language ideological debate: The case of Swedish in Finland", Journal of Language and Politics, 13, 1-20.
Honko, Lauri, Senni Timonen, Michael Branch, and Keith Bosley. (1994). The Great Bear: A Thematic Anthology of Oral Poetry in the Finno-Ugrian Languages. New York: Oxford University Press. Originally published 1993 by the Finnish Literature Society.
Holmberg, Uno. (1964). Finno-Ugric, Siberian. The Mythology of All Races, Vol. IV (ed. by John Arnott MacCullough). New York: Cooper Square Publishers, 1964. Originally published 1927 by Marshall Jones, Boston.
Pentikäinen, Juha Y. (1999). Kalevala Mythology, expanded ed. Translated by Ritva Poom. Bloomington: Indiana University Press.
Kuusi, Matti, Keith Bosley, and Michael Branch. (1977). Finnish Folk Poetry: Epic. Helsinki: Finnish Literature Society.
Talve, Ilmar. (1997). Finnish Folk Culture. Studia Fennica, Ethnologica 4. Translated by Susan Sinisalo. Helsinki: Finnish Literature Society.
Virtanen, Leea and Dubois, Thomas. (2000). Finnish Folklore. Studia Fennica, Folklorista 9. Translated by Thomas Dubois. Helsinki: Finnish Literature Society in association with University of Washington Press, Seattle, WA.