Viện Bảo tàng Orsay là một viện bảo tàng nghệ thuật nằm ở Quận 7, thành phố Paris. Tọa lạc bên bờ sông Seine, thuộc khu vực trung tâm của thành phố, tòa nhà viện bảo tàng Orsay vốn là nhà ga cũ được xây dựng nhân dịp Triển lãm thế giới năm 1900. Đến thập niên 1970, công trình được tu sửa lại và ngày 1 tháng 12 năm 1986, Tổng thống François Mitterrand khánh thành bảo tàng mới, chính thức mở cửa cho công chúng từ 9 tháng 12 năm 1986.
Ngày nay, Orsay là một trong những viện bảo tàng quan trọng nhất của Paris, sở hữu các tác phẩm nổi tiếng của nghệ thuật phương Tây thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Với các không gian dành cho hội họa, điêu khắc, họa hình, kiến trúc, nhiếp ảnh và nghệ thuật trang trí, bảo tàng trưng bày một trong những bộ sưu tập giá trị nhất của hai trường phái ấn tượng và hậu ấn tượng, tác phẩm của những nghệ sĩ danh tiếng như Claude Monet, Édouard Manet, Edgar Degas, Paul Cézanne, Auguste Rodin, Pierre-Auguste Renoir, Vincent van Gogh... Bảo tàng Orsay là một trong những điểm du lịch quan trọng và thu hút du khách nhất thành phố.
Vị trí của bảo tàng Orsay vốn là phố Lille, trục chính khu vườn cũ của hoàng hậu Marguerite của Pháp. Sau khi hoàng hậu mất vào năm 1615, khu đất được chia lô và nhiều dinh thự quý tộc được xây dựng dọc theo bờ sông Seine, gần bến cảng mang tên Grenouillière. Kè sông Orsay, bắt đầu từ năm 1708 và hoàn thành dưới thời Đệ nhất Đế chế Pháp. Từ năm 1782 tới năm 1788, dinh thự Salm, ngày nay là điện Bắc đẩu bội tinh, được xây dựng.[3]
Thế kỷ 19, trên vị trí nhà ga Orsay sau này là hai công trình: doanh trại kỵ binh và cung điện Orsay - công trình được xây trong khoảng năm 1810 tới năm 1838 bởi các kiến trúc sư Jean-Charles Bonnard và Jacques Lacornée. Cung điện Orsay từng là trụ sở của Bộ Ngoại giao, Tòa án rồi Hội đồng nhà nước. Vào thời Công xã Paris, khu phố này bị thiêu trụi. Trong vòng 30 năm sau đó, các bức tường cháy đen của cung điện Orsay là dấu tích của cuộc nội chiến.[3]
Nhà ga Orsay
Trước Triển lãm thế giới 1900, Nhà nước nhượng lại khu vực này cho Công ty Đường sắt Orléans, dành cho dự án xây dựng nhà ga mới trong trung tâm thành phố. Năm 1897, công ty Đường sắt bắt đầu xem xét đề án xây dựng ga Orsay giữa khu phố sang trọng. Đến năm 1898, kiến trúc sư được chọn là Victor Laloux.[4]
Nhà ga và khách sạn đã được khánh thành vào 14 tháng 7 năm 1900, dịp Triển lãm thế giới. Phía bên ngoài, Victor Laloux che giấu kết cấu thép bằng một lớp trang trí đá theo phong cách chiết trung. Bên trong, Orsay là một nhà ga hiện đại, được trang bị cầu thang máy, các băng chuyển hành lý, với 16 đường ray ngầm, các dịch vụ tiếp đón trên tầng trệt. Đại sảnh của nhà ga cao 32 mét, rộng 40 mét dọc theo ke tàu.[4]
Từ năm 1900 tới năm 1939, nhà ga Orsay giữ vai trò ga cuối của tuyến đường sắt Tây Nam nước Pháp. Khách sạn Orsay không chỉ đón tiếp các du khách mà còn dành cho trụ sở các tổ chức, đảng phái chính trị, nơi tổ chức nhiều tiệc chiêu đãi. Nhưng từ năm 1939, ga Orsay chỉ còn phục vụ cho các tuyến ra ngoại ô. Cơ sở nhà ga không còn phù hợp khi các đoàn tàu dần được điện khí hóa. Nhà ga sau đó được sử dụng làm trung tâm gửi hành lý các tù nhân trong chiến tranh, rồi trở thành trung tâm tiếp đón tù nhân sau giải phóng. Tới ngày 1 tháng 1 năm 1973, khách sạn Orsay đóng cửa.[4]
Bảo tàng
Năm 1973, ban giáo đốc các bảo tàng nước Pháp bắt đầu xem xét việc tu sửa lại nhà ga cho một bảo tàng mới về nghệ thuật châu Âu từ nửa cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Tới ngày 20 tháng 10 năm 1973, Tổng thốngValéry Giscard d'Estaing ký quyết định chính thức thành lập bảo tàng Orsay. Năm 1978, cơ quan bảo tàng Orsay được thành lập và công ty xây dựng Bouygues bắt đầu công việc tu sửa công trình cho chức năng mới.[5] Ngày 1 tháng 12 năm 1986, Tổng thống François Mitterrand khánh thành bảo tàng và tới ngày 9 tháng 12, Orsay bắt đầu mở cửa cho công chúng.
Kiến trúc
Tòa nhà bảo tàng
Chiều dài
188m
Chiều rộng
75 m
Diện tích sử dụng
57.400 m²
Số liệu chi tiết
Tòa nhà Dài: 188 m Rộng: 75 m Kết cấu thép: 12.000 tấn Kính: 35.000 m² Sảnh chính Dài: 138 m Rộng: 40 m Cao: 32 m Trần: 1600 bức trang trí hoa hồng
Bảo tàng Diện tích sử dụng: 57.400 m² Diện tích trưng bày: 16.853 m² Diện tích triển lãm: 1.837 m² Nhà hàng, cà phê: 1.200 m² Phòng nghe nhìn: 570 m², 347 chỗ
Bảo tàng Orsay nằm bên bờ sông Seine, thuộc Quận 7, không xa các công trình quan trọng khác như Palais Bourbon, điện Invalides, Louvre... Tòa nhà bảo tàng dài 188 mét nằm dọc theo sông, chiều rộng 75 mét. Vẫn mang dáng dấp của nhà ga đường sắt, mặt ngoài và sảnh chính của bảo tảng Orsay được trang trí các đồng hồ lớn.
Vào năm 1900, họa sĩ Edouard Detaille từng viết: "Nhà ga này thật tuyệt vời và có không khí của một cung mỹ thuật" (La gare est superbe, elle a l’air d’un palais des Beaux-Arts).[6] Năm 1979, khi quyết định sửa nhà ga thành bảo tàng, đã có sáu thiết kế được xem xét. Cuối cùng, bản thiết kế được chọn là của nhóm kiến trúc sư ACT-Architecture. Các kiến trúc sư Renaud Bardon, Pierre Colboc và Jean-Paul Philippon đã tôn trọng kiến trúc cũ của Victor Laloux, làm nổi bật gian giữa như một trục chính và sử dụng mái che lợp kính.[7]
Các phòng trưng bày của bảo tàng Orsay nằm trên ba tầng. Tầng trệt gồm sảnh lớn ở giữa và các phòng hai bên. Tầng thứ hai, hành lang chạy vòng, một phía cho phép nhìn xuống sảnh, phía còn lại là lối vào các phòng trưng bày. Tầng trên cùng, các phòng trưng bày nằm dọc bên phía sông Seine và phía phố Légion d'Honneur. Ngoài ra, bảo tàng Orsay còn có các không gian dành cho nhà hàng, quán cà phê, hiệu sách và phòng nghe nhìn.[8]
Tổ chức hành chính và các hoạt động
Về mặt hành chính, kể từ 1 tháng 1 năm 2004, bảo tàng Orsay là một cơ quan hành chính công cộng, quản lý cả bảo tàng Hébert ở số 85, phố Cherche-Midi, Quận 6. Bên cạnh chức năng bảo tàng, Orsay còn thường xuyên tổ chức các cuộc triển lãm, tại bảo tàng và đôi khi ở địa điểm khác. Đầu năm 2008, Orsay tổ chức tại Kyoto và Tokyo cuộc triển lãm về Pierre-Auguste Renoir và con trai, Jean Renoir. Ngoài ra, Orsay còn có các cuộc hội thảo, gặp gỡ cũng như những hoạt động nghiên cứu về nghệ thuật.
Hội họa: Các họa sĩ lớn và các tác phẩm đại diện ===
Bộ sưu tập hội họa của Orsay được bắt nguồn từ bảo tàng Luxembourg, do vua Louis XVIII thành lập năm 1818 tập hợp tác phẩm của những nghệ sĩ đương thời. Nhưng phải đến cuối thế kỷ 19, các bộ sưu tập của nhà nước mới dần đa dạng nhờ hiến tặng của những cá nhân, người thân các nghệ sĩ. Năm 1890, tác phẩm Olympia của Edouard Manet được tặng lại cho bảo tàng Luxembourg. Năm 1894, bộ sưu tập của Gustave Caillebotte cũng được di tặng cho Nhà nước, gồm hơn 60 họa phẩm của Degas, Manet, Cézanne, Monet, Renoir, Sisley, Pissarro và Millet. Cũng khoảng thời gian này, Chính phủ Pháp bắt đầu tìm mua lại tác phẩm của những nghệ sĩ hiện đại hơn, như Pierre Puvis de Chavannes, Henri Fantin-Latour, Eugène Carrière... Những năm tiếp theo, bộ sưu tập Trường phái ấn tượng tiếp tục phong phú nhờ quà tặng của những người thừa kế. Bên cạnh đó, bộ sưu tập tác phẩm các nghệ sĩ nước ngoài cũng phát triển và được lập thành bảo tàng Jeu de Paume vào năm 1922. Năm 1929, các tác phẩm Trường phái ấn tượng được chuyển về bảo tàng Louvre.
Đến năm 1937, bảo tàng Luxembourg được thay thế bằng bảo tảng Nghệ thuật hiện đại, nằm tại Palais de Tokyo. Năm 1947, bảo tàng Louvre được tổ chức lại và bộ sưu tập Trường phái ấn tượng chuyển về Jeu de Paume. Các tác phẩm này đã thu hút một lượng công chúng quá lớn khiến Jeu de Paume trở nên chật hẹp. Bảo tảng Orsay được thành lập đã giải quyết cả vấn đề tương tự với bảo tàng Nghệ thuật hiện đại trong Trung tâm Pompidou. Trong suốt khoản thời gian đó và cả sau này, bộ sưu tập hội họa vẫn tiếp tục phát triển nhờ di tặng và mua lại.
Pierre Puvis de Chavannes – Young Girls by the Seaside, The Young Mother hay còn được biết đến là Charity, View on the Château de Versailles and the Orangerie
Maurice Denis – Portrait of the Artist Aged Eighteen, Princess Maleine's Minuet or Marthe Playing the Piano, The Green Trees or Beech Trees in Kerduel, October Night (bảng trang trí phòng con gái), Homage to Cézanne
André Derain – Charing Cross Bridge, hay còn được biết đến là Westminster Bridge
Tương tự bộ sưu tập hội họa, một phần những tác phẩm điêu khắc của Orsay cũng bắt nguồn từ bảo tàng Luxembourg. Nhưng so với hội họa, số lượng bộ sưu tập điêu khắc của bảo tàng Luxembourg ít hơn, vào năm 1852 mới chỉ có 25 tác phẩm. Năm 1875, sau khi Antoine-Louis Barye mất, bảo tàng có thêm một số tác phẩm gang và bản mẫu bằng sáp của nhà điều khắc này. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, bảo tàng Luxembourg dần nhận được nhiều tác phẩm quan trọng khác của Auguste Rodin, Honoré Daumier, Antoine Bourdelle...
Trong một thời gian dài, bảo tàng Luxembourg đã bỏ quên các nhà điêu khắc nước ngoài. Năm 1923, bảo tàng Trường phái ngoại quốc được thành lập ở Jeu de Paume và mở cửa tới 1940. Năm 1947, bảo tàng Jeu de Paume được mở cửa trở lại, nhưng bộ sưu tập điêu khắc đóng vai trò thứ yếu sau bộ sưu tập hội họa, đặc biệt là các tác phẩm hội họa Ấn tượng. Năm 1939, bảo tàng Luxembourg đóng cửa, các tác phẩm phân tán về Louvre, trung tâm Pompidou, Palais de Tokyo và cả thành phố khác.
Khi bảo tàng Orsay được thành lập, nơi đây trở thành một không gian lý tưởng cho các tác phẩm điêu khắc. Một số tác phẩm từ các bảo tàng khác nữa cũng được chuyển về Orsay như La Pensée và La porte de l'Enfer từ bảo tàng Rodin, La Nature se dévoilant à la Science của Ernest Barrias từ Conservatoire des arts et métiers. Orsay cũng nhận được các tác phẩm từ thành phố khác và một số tượng đài ở các công trình kiến trúc. Những năm đầu mở cửa, Hội những người bạn Orsay còn thu thập được thêm 200 tác phẩm điêu khắc.[9] Từ năm 1986, để đa dạng hóa bộ sưu tập điêu khắc, bảo tàng mua thêm các tác phẩm của những nghệ sĩ nước ngoài như Medardo Rosso, Max Klinger... cũng như một bộ sưu tập quan trọng của Camille Claudel.
Hiện nay, bảo tàng Orsay sở hữu hơn 2.200 tác phẩm điêu khắc.[9]
Nghệ thuật trang trí, nhiếp ảnh, họa hình, kiến trúc
Nghệ thuật trang trí: Bảo tàng Orsay thành lập đã tập trung một số lượng lớn các tác phẩm nghệ thuật trang trí đang phân tán ở nhiều bảo tàng hay cơ quan khác, như lâu đài Fontainebleau, Bộ Ngoại giao, bảo tàng Louvre, bảo tàng Cluny... Bộ sưu tập này gồm các tác phẩm thuộc giai đoạn 1850-1880. Về thời kỳ Art nouveau, Orsay nhận được các tác phẩm từ bảo tàng Nghệ thuật trang trí. Những năm tiếp theo, bảo tàng mua thêm và được tặng lại nhiều tác phẩm đa dạng khác.[10]
Nhiếp ảnh: Vào những năm 1970, khi Orsay được quyết định thành lập, chưa một bảo tàng Pháp nào có phòng trưng bày riêng cho nhiếp ảnh. Khác với các tác phẩm hội họa, điêu khắc được thừa hưởng từ bảo tàng khác, bộ sưu tập nhiếp ảnh của Orsay được bắt đầu bằng việc mua lại. Những album ảnh đầu tiên được mua thuộc thời kỳ 1839 tới 1863, giai đoạn được xem như hoàng kim của nhiếp ảnh Pháp và Anh với các tác phẩm của Gustave Le Gray, Édouard Baldus, Hippolyte Bayard... Tiếp theo, một số tác phẩm từ các cơ quan, viện lưu trữ cũng được chuyển về Orsay. Năm 1986, bảo tàng mua được một bộ các album ảnh của Eugène Atget mang tên Documents pour l'histoire du vieux Paris. Năm 1991, bảo tàng được tặng một bộ sưu tập các bức ảnh của Félix Nadar. Hiện nay, Orsay sở hữu hơn 45 ngàn tác phẩm nhiếp ảnh và vẫn tiếp tục mua lại hoặc được tặng thêm.[11]
Họa hình: Được tập hơp từ các bảo tàng khác, cũng như nhờ mua lại, tặng vật, bảo tàng Orsay hiện nay sở hữu hơn 10 ngàn bản vẽ. Trong số đó có thể kể đến các tác phẩm của những nghệ sĩ nổi tiếng như Les amateurs d'estampes của Honoré Daumier, Sur la plage của Eugène Boudin, Le pont d'Asnières của Paul Signac, Jeune homme assis, étude. Autoportrait dit au chevalet của Gustave Courbet.[12]
Kiến trúc: Ngay từ khi được quyết định thành lập, kiến trúc đã được dành không gian ở bảo tàng Orsay. Các bản vẽ kiến trúc được chuyển về từ bảo tàng Louvre. Trong đó có những tác phẩm của các kiến trúc sư nổi tiếng thế kỷ 19 như Victor Baltard, Félix Duban, Charles Garnier, Henri Labrouste, Eugène Viollet-le-Duc. Phong cách Art nouveau, Orsay có các tư liệu của Émile Gallé - được cháu nội của Gallé tặng lại vào tháng 5 năm 1986 - và Hector Guimard - do các sinh viên tìm được năm 1968. Nhờ các chính sách sưu tầm, Orsay tiếp tục thu thập được các hiện vật về kiến trúc cổ cho tới kiến trúc hiện đại. Khu vực kiến trúc cũng trưng bày mô hình của các công trình nổi tiếng, các quy hoạch đô thị...[13]
Reruntuhan Benteng Mayangan Benteng Mayangan adalah benteng peninggalan masa penjajahan Belanda di Mayangan, Probolinggo. Benteng ini terletak sekitar satu kilometer di sebelah selatan Pelabuhan Tanjung Tembaga. Bangunan benteng ini hanya tersisa beberapa bagian saja dan sempat terbengkalai. Namun reruntuhan benteng saat ini telah dirapikan dan pada beberapa bagian terdapat taman. Saat ini juga terdapat sebuah kedai kopi di bagian depan reruntuhan benteng.[1] Benteng ini dahulunya mem...
Esempio di cordone litorale, Airdrie, Canada Un cordone litorale è una formazione costiera formata dall'azione di trasporto di materiali da parte dei grandi fiumi e dalle correnti della deriva litoranea, che originano depositi che sostituiscono ai contorni della costa, formando una sorta di argine naturale. Un costone è tipicamente costituito da materiali quali sabbia o ciottoli; spesso la formazione ha un andamento ricurvo, soprattutto in prossimità dell'apice, caratteristica probabilment...
Artikel utama: Daftar telenovela Televisa Berikut adalah daftar telenovela yang diproduksi Televisa dari tahun 2000 hingga 2009. La fea más bella, dibintangi oleh Angélica Vale dan Jaime Camil, versi Meksiko kedua dari telenovela Kolombia populer Betty la fea. 2000 Judul Pengarang Direktur Ref. Amigos x siempre Palmira Olguín, Martha Olaíz dan Irma Ramos Gilberto Macin Siempre te amaré Caridad Bravo Adams Patricia Reyes Spíndola Ramona Helen Hunt Jackson Alberto Cortés, Nicolás Echeva...
Latrodectus Latrodectus hesperus (janda hitam barat) betinaTaksonomiKerajaanAnimaliaFilumArthropodaKelasArachnidaOrdoAraneaeFamiliTheridiidaeGenusLatrodectus Walckenaer, 1805 Tata namaSinonim takson Chacoca Badcock, 1932[1][2] Spesies34lbs Latrodectus adalah sebuah genus laba-laba yang tersebar luas, dengan beberapa spesies yang secara umum dikenal sebagai janda sejati. Kelompok ini terdiri dari anggota-anggota yang biasa dikenal sebagai laba-laba janda hitam, laba-laba janda...
Sub-group of Albanians Cham Albanian redirects here. For the dialect, see Cham Albanian dialect. For the Austronesian ethnic group, see Chams. Cham AlbaniansTotal populationc. 170,000[1]–690,000[2][3]Regions with significant populations Albania120,000[4]–250,000[2] Greece44 Muslim Chams,[5] 40,000 Christian Orthodox Chams[2][6] Turkey80,000–100,000[7] United States50,000–70,000[2]...
Arch-monument in Kolkata, India This article possibly contains original research. Please improve it by verifying the claims made and adding inline citations. Statements consisting only of original research should be removed. (July 2021) (Learn how and when to remove this template message) Kolkata GateBiswa Bangla GateBiswa Bangla GateGeneral informationTypeRestaurantArchitectural styleRetrofuturismTown or cityNew Town, Kolkata, West BengalCountry IndiaCoordinates22°34′43″N 88°28′...
Japanese electric multiple unit train type Keio 1000 seriesSet 1707 in December 2022In service1996–presentManufacturerTokyu Car Corp, Nippon SharyoReplacedKeio 3000 seriesConstructed1995–2010Entered service9 January 1996Refurbished2016–2020Number built145 vehicles (29 sets)Number in service145 vehicles (29 sets)Formation5 cars per trainsetFleet numbers 1701–1715 1721–1734 OperatorsKeio CorporationDepotsFujimigaokaLines servedIN Inokashira LineSpecificationsCar body constructionStain...
Public radio broadcaster of Ukraine Ukrainian RadioTypeRadio networkCountryUkraineOwnershipOwnerSuspilneKey peopleDmytro Khorkin (General producer)HistoryLaunch dateNovember 16, 1924; 99 years ago (1924-11-16)Former namesNational Radio Company of Ukraine (official name, before merging with Suspilne)CoverageAvailabilityInternationalLinksWebsiteukr.radiosuspilne.radio Ukrainian Radio (Ukrainian: Українське радіо) is the publicly funded radio broadcaster in Ukrai...
Artikel ini membahas mengenai bangunan, struktur, infrastruktur, atau kawasan terencana yang sedang dibangun atau akan segera selesai. Informasi di halaman ini bisa berubah setiap saat (tidak jarang perubahan yang besar) seiring dengan penyelesaiannya. Terowongan Gibraltar digambarkan sebagai terowongan rel yang akan menghubungkan Afrika dan Eropa. Ide hubungan melalui jembatan atau terowongan melintasi Selat Gibraltar telah ada sejak 1980-an.[1][2] Selat Gibraltar Spanyol dan...
Translation of the Bible by Jerome Catholic Vulgate redirects here. For other uses, see Catholic Vulgate (disambiguation). VulgateTwo 8th-century Vulgate manuscripts: Codex Sangallensis 63 (left) and Codex Amiatinus (right). The Vulgate (/ˈvʌlɡeɪt, -ɡət/; also called Biblia Vulgata (Bible in common tongue), Latin: [ˈbɪbli.a wʊlˈɡaːta]), sometimes referred to as the Latin Vulgate, is a late-4th-century Latin translation of the Bible. The Vulgate is largely the work of Jerom...
British naval officer, writer, and politician The Right HonourableThe Lord King-Hall of HeadleyStephen King-Hall in 1917Member of the House of LordsLord TemporalIn office15 January 1966 – 2 June 1966Member of Parliamentfor OrmskirkIn office27 October 1939 – 15 June 1945Preceded bySamuel RosbothamSucceeded byHarold Wilson Personal detailsBornWilliam Stephen Richard King-Hall(1893-01-21)21 January 1893London, EnglandDied2 June 1966(1966-06-02) (aged 73)London, England...
Comune in Friuli-Venezia Giulia, ItalyTreppo Grande Trep Grant (Friulian)ComuneComune di Treppo GrandeLocation of Treppo Grande Treppo GrandeLocation of Treppo Grande in ItalyShow map of ItalyTreppo GrandeTreppo Grande (Friuli-Venezia Giulia)Show map of Friuli-Venezia GiuliaCoordinates: 46°12′N 13°9′E / 46.200°N 13.150°E / 46.200; 13.150CountryItalyRegionFriuli-Venezia GiuliaProvinceUdine (UD)Government • MayorManuela CelottiArea[1]...
1999 novel by Tracy Chevalier Girl with a Pearl Earring First British edition dustjacketAuthorTracy ChevalierLanguageEnglishGenreHistorical fictionPublisherHarperCollins (UK)Dutton (US)Publication dateJanuary 1, 1999Media typePrint (Hardcover)Pages258 ppOCLC42623358Dewey Decimal813/.54 21LC ClassPS3553.H4367 G57 1999 Girl with a Pearl Earring is a 1999 historical novel written by Tracy Chevalier. Set in 17th-century Delft, Holland, the novel was inspired by local painter Johannes Ve...
Part of a series onForced labour and slavery Contemporary Child Labour Child soldiers Conscription Debt Forced marriage Bride buying Child marriage Wife selling Forced prostitution Human trafficking Peonage Penal labour Contemporary Africa 21st-century jihadism Sexual slavery Wage slavery Historical Antiquity Egypt Babylonia Greece Rome Medieval Europe Ancillae Black Sea slave trade Byzantine Empire Kholop Prague slave trade Serfs History In Russia Emancipation Thrall Genoese slave trade Ven...
عبد الرزاق آخند زاده معلومات شخصية الميلاد سنة 1958 ولاية قندهار تاريخ الوفاة سنة 2003 (44–45 سنة) مواطنة إمارة أفغانستان الإسلامية الحياة العملية المهنة سياسي الخدمة العسكرية الولاء طالبان تعديل مصدري - تعديل ملا عبد الرزاق آخوند زاده (مواليد 1958) هو و�...