1989 (album)

1989
Ảnh bìa album 1989 của Taylor Swift, trong đó là bức hình chụp Polaroid Swift từ phần mũi trở xuống. Cô tô đôi môi màu son đỏ và mặc chiếc áo len lavender tay dài có in hình chụp những con mòng biển đang bay lượn trên bầu trời xanh thẳm.
Bìa phiên bản tiêu chuẩn tại Bắc Mỹ
Album phòng thu của Taylor Swift
Phát hành27 tháng 10 năm 2014 (2014-10-27)
Phòng thu
Thể loạiSynth-pop
Thời lượng48:41
Hãng đĩaBig Machine
Sản xuất
Thứ tự album của Taylor Swift
Red
(2012)
1989
(2014)
Reputation
(2017)
Đĩa đơn từ 1989
  1. "Shake It Off"
    Phát hành: 19 tháng 8 năm 2014
  2. "Blank Space"
    Phát hành: 10 tháng 11 năm 2014
  3. "Style"
    Phát hành: 9 tháng 2 năm 2015
  4. "Bad Blood"
    Phát hành: 17 tháng 5 năm 2015
  5. "Wildest Dreams"
    Phát hành: 31 tháng 8 năm 2015
  6. "Out of the Woods"
    Phát hành: 19 tháng 1 năm 2016
  7. "New Romantics"
    Phát hành: 23 tháng 2 năm 2016

1989 là album phòng thu thứ năm của nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ Taylor Swift, được hãng đĩa Big Machine Records phát hành vào ngày 27 tháng 10 năm 2014. Swift sáng tác album nhờ vào cảm hứng thể loại synth-pop bắt nguồn từ những năm thập niên 1980. Cô quyết định thực hiện bước chuyển đổi nghệ thuật sang nhạc pop hoàn toàn, sau khi bị giới chuyên môn bắt bẻ về hình tượng nhạc sĩ đồng quê. Nguyên nhân là do Swift đã từng phát hành và quảng bá Red (2012), một album vốn hòa trộn với nhiều thể loại âm nhạc khác nhau, lên đài phát thanh đồng quê. Nhằm phục hồi biểu tượng nghệ thuật trong âm nhạc của bản thân, Swift lấy tên album theo chính năm sinh của cô. Nữ ca sĩ mời lại nhạc sĩ kiêm nhà sản xuất âm nhạc Max Martin trước đó đã sáng tác các ca khúc thiên hướng nhạc điện tử trong Red, và đưa ông lên làm đồng giám đốc sản xuất cho album này.

Swift thu âm các bài hát cho 1989 tại nhiều phòng thu khắp Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Thụy Điển. Đội ngũ nhà sản xuất của album gồm có Martin, Shellback, Jack Antonoff, Ryan Tedder, Nathan ChapmanImogen Heap. Phần nhạc khí synth-pop trong 1989 mang âm thanh đặc trưng của synthesizer sôi động, máy đánh trống được lập trình và giọng hát nền được xử lý bằng các yếu tố thể loại điện tử. Do đó, 1989 trở nên đối nghịch rõ rệt so với phần biên khúc acoustic trong những album trước đó của Swift. Mỗi bài hát trong album đều khai mở phong cách nghệ thuật sáng tác tự truyện của Swift cũng như mang đề tài mối tình lãng mạn thất bại dưới góc nhìn vui vẻ dịu dàng của nữ ca sĩ.

Swift và Big Machine quảng bá 1989 trên nhiều phương tiện truyền thông và album đã đạt được vô vàn thành công về mặt thương mại, bất chấp từng bị nữ ca sĩ rút khỏi các dịch vụ phát nhạc trực tuyến dẫn đến nhiều cuộc tranh cãi trong ngành công nghiệp âm nhạc về tác động của phát nhạc trực tuyến. Nhằm quảng bá album rộng rãi, Swift thực hiện chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới The 1989 World Tour và lập thành tích trở thành nghệ sĩ có doanh thu lưu diễn cao nhất năm 2015. Xuyên suốt bảy đĩa đơn được phát hành thì có ba đĩa đơn trong 1989 đứng đầu bảng xếp hạng Billboard Hot 100 tại Hoa Kỳ gồm "Shake It Off", "Blank Space" và "Bad Blood". 1989 dành ra tổng cộng 11 tuần đứng đầu Billboard 200 và được Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) chứng nhận đĩa 9× Bạch kim. Nhạc phẩm đã tẩu tán tổng cộng 14 triệu bản trên toàn thế giới và đạt chứng nhận đa Bạch kim tại nhiều quốc gia.

Nhìn chung lúc mới ra mắt, giới phê bình âm nhạc đều khen ngợi chất nhạc bắt tai của 1989. Họ cảm nhận được mối gắn kết về mặt cảm xúc trong sáng tác của nhạc phẩm. Tuy vậy, một số cây bút lại cảm thấy việc Swift sử dụng giai điệu synth-pop trong 1989 đã cho tính toàn vẹn về mặt nghệ thuật của nữ ca sĩ bị mất dần. Những lời chỉ trích về sau được các nhà báo và học giả nhìn nhận là đến từ những người theo chủ nghĩa nhạc rock. 1989 đoạt giải Album của nămAlbum giọng pop xuất sắc nhất tại giải Grammy vào năm 2016, và được các ấn phẩm như Rolling StoneConsequence đặt vào danh sách xếp hạng album mọi thời đại. Mặc dù các chuyên gia và học giả đã công nhận 1989 là một album đã giúp Swift chuyển mình sang một biểu tượng nhạc pop và lan tỏa chủ nghĩa nhạc pop lạc quan, nhưng họ cũng chỉ ra rằng album đã thu hút nhiều ánh mắt giám sát của giới truyền thông về phía nữ ca sĩ nhiều hơn. Sau sự việc tranh chấp quyền sở hữu tác phẩm vào năm 2019, Swift đã quyết định tái thu âm cho album này và phát hành với tên gọi 1989 (Taylor's Version) vào ngày 27 tháng 10 năm 2023.

Bối cảnh

Swift bắt đầu sáng tác 1989 trong thời gian lưu diễn The Red Tour (ảnh) vào cuối năm 2013.

Taylor Swift luôn được nhiều người nhìn nhận là một nhạc sĩ đồng quê cho đến khi nữ ca sĩ phát hành album phòng thu thứ tư, Red, vào ngày 22 tháng 10 năm 2012.[1][2][3] Cô đã bổ sung thêm thể loại pop chiết trung với rock trong Red, làm cho album trở nên khác lạ so với phong cách đồng quê trong những album trước đây.[1] Thông qua quá trình hợp tác với các nhà sản xuất nhạc pop người Thụy Điển Max MartinShellback, công trình sáng tác nhạc của Swift đã góp mặt thêm phần hook thiên hướng pop cũng như những thể loại mới như EDMdubstep.[4][5] Dẫu vậy, Swift và hãng đĩa Big Machine vẫn quảng bá Red là album nhạc đồng quê.[6][7] Chính vì Red mang nhiều thể loại âm nhạc khác nhau nên giới phê bình đã bắt bẻ và tranh cãi gay gắt về chuyện hình tượng nghệ sĩ nhạc đồng quê của Swift. Nữ ca sĩ đã từng lên tiếng đáp trả họ trong một cuộc phỏng vấn với The Wall Street Journal rằng, "Tôi để cho người ta mặc sức gắn thể loại."[8]

Ngoài ra, Swift còn được biết đến rộng rãi với biệt danh "cục cưng nước Mỹ" nhờ vào hình tượng cô gái hàng xóm lành mạnh và thực tế.[9][10] Tuy nhiên, do tình sử hợp tan với hàng loạt bạn trai có tên tuổi trong ngành giải trí nên cô thường xuyên bị nhiều người bôi bác gây ảnh hưởng đến danh tiếng. The New York Times khẳng định vào năm 2013 rằng "lịch sử hẹn hò [của Swift] đã khuấy động một thứ được gọi là sự khởi đầu của phản ứng dữ dội" và đặt ra câu hỏi rằng liệu Swift có đang trải qua khủng hoảng một phần tư cuộc đời hay không.[11] Tampa Bay Times nhận thấy rằng trước khi có 1989, đời sống tình cảm của Swift đã trở thành chủ đề được báo chí lá cải thường xuyên quan tâm và đưa tin, khiến cho khả năng âm nhạc của cô trở nên mờ nhạt do điều đó.[10] Swift không thích bị giới truyền thông gọi là một "kẻ hẹn hò hàng loạt". Cô cảm thấy rằng hành động đó đã nhấn chìm công việc chuyên môn của cô và khiến cô trở nên khó xử trước việc đời tư bị công chúng bàn tán.[12][13] Mặc dù Swift vẫn duy trì nét lãng mạn cổ điển trong sáng tác nhưng chính sự soi mói từ các tờ báo lá cải về hình tượng của nữ ca sĩ đã thôi thúc Swift tạo nên những bài hát cho album kế tiếp nhằm châm biếm cách người khác nhìn nhận hình tượng của cô.[14]

Cảm hứng sáng tác

Peter Gabriel mặc áo sơ mi xanh, hát micro trong khi giơ một nắm tay lên trời
Annie Lennox vừa biểu diễn đàn piano vừa mỉm cười
Các nghệ sĩ thập niên 1980 như Peter Gabriel (trái)Annie Lennox (phải) truyền cảm hứng cho Swift sáng tác 1989.[14]

Swift bắt đầu sáng tác album phòng thu thứ năm của cô vào giữa năm 2013, chưa đầy 8 tháng sau khi ra mắt Red và trong lúc vẫn còn đang thực hiện chuyến lưu diễn The Red Tour.[15][16] Cô nhấn mạnh điểm khác biệt của sản phẩm sắp tới so với Red rằng, "Tôi nghĩ mục tiêu của album kế đến là tiếp tục thay đổi và không bao giờ giống nhau hai lần [...] đây chắc chắn là điều mới lạ hơn bất kỳ thứ gì tôi từng thực hiện."[16] Quá trình sáng tác cho 1989 diễn ra một cách tự nhiên và kéo dài trong hai năm.[17] Theo Swift, những bản nhạc sáng tác trong năm đầu tiên đều bị hủy bỏ vì chỉ những bài hát sáng tác năm thứ hai mới định hình nên tác phẩm cuối cùng.[15] Tính đến tháng 10 năm 2013, Swift đã trải qua sáu tháng chuyên tâm phát triển sự nghiệp sáng tác.[16] Một tháng sau, cô chia sẻ "có từ bảy đến tám [bài hát] mà tôi biết chắc mình muốn trong bản thu âm [...] chúng đều mang âm thanh mới và đó là tất cả những gì tôi mong đợi."[17] Vào tháng 3 năm 2014, Swift chuyển nhà từ Nashville sang thành phố New York.[18] Cô tường thuật rằng việc di dời nơi ở trong lúc không bị tình cảm làm ảnh hưởng đến cuộc sống đã giúp cô có thêm nhiều ý tưởng mới cho album,[13][19] không chỉ riêng câu chuyện truyền thông đeo bám.[20]

Swift nhìn nhận Red là một album nhập nhằng giữa thể loại đồng quê và thể loại pop. Do vậy, nữ ca sĩ quyết định theo đuổi một nhạc phẩm "pop hoàn toàn" và nói bóng gió rằng "nếu như bạn cố bắt hai con thỏ thì bạn sẽ để cho hai chúng nó chạy mất."[12] Chủ tịch hãng đĩa Big Machine, ông Scott Borchetta, lúc đầu còn mơ hồ trước quyết định của Swift và ra sức thuyết phục cô thu âm thêm một vài bài hát đồng quê bằng những nhạc cụ như fiddle, nhưng cô đã từ chối lời đề nghị đó.[21] Về sau, Borchetta cũng chiều theo ý nữ ca sĩ là không quảng bá album lên đài phát thanh nhạc đồng quê và cho rằng "người hâm mộ của Swift sẽ yêu thích điều đấy".[22][23] Swift đã lấy cảm hứng thể loại synth-pop đến từ thập niên 1980. Đây là giai đoạn mà nữ ca sĩ nhìn nhận là một "triều đại thử nghiệm trong nhạc pop", và thời đó các nhạc sĩ đã từ bỏ lối phối khí bằng "trống–guitar–bass–bất cứ thứ gì" được gây dựng sẵn để chuyển sang sáng tác bài hát bằng nhạc cụ đàn tổng hợp âm synthesizer, bộ trống drum pad và giọng hát được xếp chồng thành nhiều lớp.[24][25] Swift đã chọn hai nhạc sĩ Annie LennoxPeter Gabriel để làm cảm hứng sáng tác cho tác phẩm 1989. Cô đặc biệt ngưỡng mộ trước cách Lennox truyền tải tâm tư "mãnh liệt" bằng âm nhạc của bà cũng như giai điệu synth-pop của Gabriel đã tạo nên "bầu không khí đằng sau những ca từ mà ông ấy đang hát chứ không phải là một ca khúc được sản xuất hay ho".[14]

Thu âm và sản xuất

Sau khi chứng kiến bài hát "I Knew You Were Trouble" đứng đầu bảng xếp hạng phát thanh pop ở Hoa Kỳ suốt bảy tuần liền, Swift lấy động lực và mời lại Martin và Shellback làm những người hợp tác nồng cốt để tiếp tục ứng dụng những chất âm điện tử–pop của hai vị nhạc sĩ lên 1989.[21][8] Cô thích làm việc cùng Martin và Shellback là vì họ thường đem ý tưởng của cô và hô biến thành nhiều hướng đi khác nhau, tạo cảm giác thử thách cho nữ ca sĩ ở vai trò nhạc sĩ sáng tác bài hát. Swift gọi vai trò đốc thúc sản xuất của Martin và Shellback là một trong những yếu tố khiến cô quyết định thay đổi trong album này: "Tôi chưa bao giờ bị thử thách về mặt sáng tác tới vậy [...] Tôi háo hức đến phòng thu mỗi ngày vì bạn không thể biết được chúng tôi sắp thực hiện điều gì [...] mức độ tự phát ấy làm tôi phấn chấn trong quá trình sản xuất âm nhạc."[16] Martin và Shellback sản xuất tổng cộng 9 trên 16 bài trong phiên bản Deluxe. Hầu hết ca khúc mà Martin sản xuất đều trải qua giai đoạn chỉnh sửa tại Thụy Điển, các phòng thu như MXM StudiosStockholm, Studio Elevator Nobody ở Göteborg và The Hideaway Studio.[26] Swift ghi công Martin là đồng điều hành sản xuất vì ông phụ trách thu âm và sản xuất giọng hát ở những bài mà ông không được ghi công. Martin còn đảm nhận hỗ trợ bổ sung ở những track mà Swift cho là quan trọng trong việc giúp cho 1989 trở nên mạch lạc hơn. Nữ ca sĩ cảm kích "sự hỗ trợ không ngừng nghỉ [...] mà không đòi hỏi ghi công" của Martin. Swift khẳng định "Max hiểu tôi muốn thực hiện một album, chứ không phải một tuyển tập bài hát nghe như vừa thu âm tại những địa điểm khác nhau, bởi nhiều người khác nhau."[21] Theo Swift, các nhà sản xuất thu âm góp mặt trong album chỉ từ bốn đến năm người mà cô thực sự muốn hợp tác. Chính cô và Martin là những người cuối cùng "giám sát" và "khiến đĩa nhạc hợp nhất trở lại về mặt âm thanh".[25]

Jack Antonoff là nhà sản xuất chủ lực tiếp theo cho 1989. Anh từng làm việc với Swift qua đĩa đơn nhạc phim "Sweeter than Fiction" (2013) mang đậm màu sắc new wavebubblegum pop thập niên 80.[27] Trong giai đoạn sản xuất, Swift và Antonoff làm việc từ xa và gửi cho nhau nhiều đoạn hội thoại mỗi khi viết một bài hát mới.[25] Đặc biệt, Antonoff sử dụng nặng nề synthesizer Juno-6 mà anh cảm thấy nhạc cụ đó sẽ đem lại cảm giác "vừa buồn tẻ vừa vinh quang cùng lúc".[28] Anh đồng sáng tác và đồng sản xuất ba bài hát, trong đó gồm hai bài nằm trong bản tiêu chuẩn và một bài nằm trong bản Deluxe.[25] "I Wish You Would" là bài hát mà nam nhạc sĩ thử nghiệm lấy sample nhạc cụ trống lẫy đến từ đĩa đơn năm 1988 "She Drives Me Crazy" của Fine Young Cannibals. Antonoff phát đoạn sample của anh cho Swift nghe bằng iPhone và gửi lại cho cô sau đó để tái thu âm.[24] Bản chính thức cuối cùng của "I Wish You Would" là một bản phối lại nhưng vẫn giữ được tiếng trống lẫy đặc trưng.[29] Đối với ca khúc "Out of the Woods", Antonoff gửi cả phần nhạc khí hoàn chỉnh của anh cho Swift trong lúc cô đang ngồi trên máy bay.[30] Chỉ trong vòng 30 phút, Swift đã gửi lại bản thu âm cho nam nhạc sĩ với lời bài hát được lấy thẳng từ những trang nhật ký của cô. "Out of the Woods" là bài hát đầu tiên mà Swift đã soạn lời dựa trên đoạn nhạc nền sẵn có.[24][31]

Swift liên hệ với ca sĩ kiêm nhạc sĩ mà cô đã luôn muốn được làm việc chung là Ryan Tedder bằng cách gửi cho anh đoạn thoại voice memo thu âm bằng điện thoại thông minh.[32] Trong 1989, Tedder đồng sáng tác và sản xuất hai bài hát cho nữ ca sĩ là "Welcome to New York" và "I Know Places".[26] Ở "I Know Places", Swift lên lịch hẹn gặp cùng Tedder tại phòng thu âm sau khi cô đã hình thành ý tưởng hoàn chỉnh cho riêng cô. Quá trình thu âm được diễn ra vào ngày tiếp theo sau khi ca khúc được hoàn thiện.[33] Tedder khen ngợi tác phong làm việc luân lý, chuyên nghiệp và cầu toàn hoàn hảo của Swift với tạp chí Time rằng: "95 trên 100 điểm đấy. Nếu như tôi có một bài hát mà chúng tôi đều hài lòng thì nữ ca sĩ ấy sẽ nói, 'Thiệt là tuyệt vời.' Thật hiếm khi nghe thấy câu nói 'Không, vẫn không đúng.' Nhưng với những nghệ sĩ thành công nhất mà tôi làm việc cùng là những người nói thẳng vào mặt tôi rằng, 'Không, anh làm sai rồi,' từ hai hoặc ba lần liên tiếp. Và cô ấy là kiểu người như vậy."[34]

Với ca khúc "Clean", Swift đích thân gặp mặt nhà sản xuất người Anh Imogen Heap tại Luân Đôn sau khi sáng tác lời, điệp khúc và hợp âm cho bài hát. Heap đã giúp nữ ca sĩ hoàn thiện ca khúc bằng cách đánh nhạc cụ như tiếng trống và thêm một chút tiếng ồn. Họ hoàn tất thu âm sau hai buổi trong một ngày tại phòng thu của Heap theo lời nhạc sĩ chia sẻ, "Đó là một ngày rất vui vẻ [...] Cô ấy thu bài hát chỉ hai lần và lần thứ hai là hoàn chỉnh."[25] Người cộng sự lâu đời của Swift Nathan Chapman phụ trách đồng sản xuất "This Love".[35] Trước khi Swift và Martin viết lại ca từ, "Style" là một bài hát nhạc không lời do nghệ sĩ guitar Niklas Ljungfelt và Ali Payami sáng tác nên. Sau khi Payami phát bài hát cho Martin tại phòng thu, Swift tình cờ nghe thấy được và bày tỏ yêu thích. Đoạn guitar được Ljungfelt thu lại trước khi bài hát thuộc về Swift.[25] 1989 được Tom Coyne master trong hai ngày tại phòng thu Sterling Sound Studio ở thành phố New York. Vị kỹ sư âm nhạc cho rằng công việc này "khá dễ dàng" và "trơn tru".[25][26] Quá trình thu âm album diễn ra tại Conway Studios ở Los Angeles, Jungle City Studios ở New York, Lamby's House Studios ở Brooklyn, MXM StudiosStockholm, Thụy Điển; Pain In The Art Studio ở Nashville, Studio Elevator Nobody ở Göteborg, Thụy Điển và The Hideaway Studio.[26] Swift tiết lộ cô sẽ hoàn tất thu âm sau khi vừa kết lại chặng châu Á của The Red Tour vào giữa năm 2014.[36]

Nhạc và lời

Âm thanh và thể loại

Phiên bản tiêu chuẩn của album 1989 gồm có 13 track. Trong phiên bản Deluxe, album có thêm 6 track bổ sung gồm 3 bài hát gốc và 3 đoạn ghi âm hội thoại.[40][41] Swift khẳng định 1989 là "album pop chính thức đầu tiên"[42] được lấy cảm hứng từ âm nhạc của các ca–nhạc sĩ thập niên 1980 như Lennox, Phil Collins hay Madonna ở kỷ nguyên Like a Prayer.[12][43] Album còn đánh dấu giai đoạn biến chuyển trong âm nhạc của cô, nhờ vào phần nhạc nền của các bài hát được sản xuất bằng những nhạc cụ như đàn tổng hợp âm synthesizer, máy đánh trống lập trình, tiếng bass rộn ràng và phần giọng hát bè qua xử lý. Chính đặc điểm về nhạc cụ trong 1989 đã dẫn đến sự đối nghịch so với các biên khúc acoustic trong album trước đó của Swift. Ngoài ra, âm thanh đàn guitar cũng xuất hiện trong kết cấu một vài bài hát.[44][45] Vì Swift đã quyết tâm tái tạo lại âm thanh pop thuần túy từ những năm 1980 nên album lần này của cô không hề có những yếu tố thể loại phụ chen vào như hip hop hoặc R&B đương đại vốn phổ biến trong âm nhạc đại chúng lúc bấy giờ.[46] Mặc dù Swift đã tuyên bố cô bắt đầu chuyển mình sang pop ở 1989 nhưng một số nhà phê bình như Marah Eakin của The A.V. Club[47] đã khẳng định rằng nữ ca sĩ đã luôn thiên về pop. Ngay cả những bài nhạc đồng quê cũ nhất của cô cũng hơi hướng đi theo thể loại đại chúng đó.[1]

Âm thanh "Wildest Dreams" được so sánh với các tác phẩm của nữ ca sĩ người Mỹ Lana Del Rey,[47][48] còn "Style" thì lại gợi người nghe nhớ đến phong cách của Electric YouthBlood Orange.[49] "Blank Space" mang thể loại electropop tối giản,[39] kết hợp nhịp điệu hip-hop của máy đánh trống.[29][34][39] Được xem như một ví dụ hoàn hảo của album,[50] "Out of the Woods" mang các yếu tố của thập niên 1980 xen lẫn đương đại, sử dụng đàn synthesizer Yamaha DX7 và âm thanh méo mó của Minimoog Voyager trong đoạn điệp khúc.[31] "Shake It Off" là một bài nhạc pop tiết tấu nhanh,[37] có xuất hiện tiếng kèn saxophone.[51] Alex Frank của Vogue so sánh đoạn hợp âm "ey ey" trong "Wonderland" với một bài hát của ca sĩ Rihanna.[52] Các yếu tố synth-pop cũng xuất hiện trong "New Romantics",[53] "Welcome to New York" và "You Are in Love".[29] Ba bản ghi âm "I Know Places", "I Wish You Would" và "Blank Space" trong phiên bản Deluxe có chứa lời kể của Swift về quá trình sáng tác và đoạn demo chưa hoàn chỉnh của các ca khúc.[54] Giáo sư truyền thông và nghệ thuật Myles McNutt đã ví những track voice memo là cách thức Swift khẳng định quyền thế của cô với album 1989 cũng như góp phần thách thức "hệ thống phân cấp giới tính" của nhạc pop do các nhạc sĩ sáng tác bài hát và nhà sản xuất nam giới thống trị.[41]

Lối sáng tác và ca từ

Tương tự như những album liền trước của Swift, 1989 chủ yếu nói về cảm xúc và suy tư xuất phát từ những mối quan hệ lãng mạn đổ vỡ trong quá khứ.[44][55][56] Ngoài ra, ca từ của các bài hát trong album cũng được lấy cảm hứng từ những câu chuyện diễn ra trong cuộc sống của Swift lúc bấy giờ.[21][57] Tuy phong cách sáng tác bài hát của Swift vẫn giữ nguyên là đi theo hình thức kể chuyện bắt nguồn từ hoàn cảnh lớn lên cùng âm nhạc đồng quê của cô,[58][59] nhưng các nhà âm nhạc học cho rằng lối sáng tác theo âm nhạc pop khi đó của nữ ca sĩ mơ hồ hơn và tập trung nhiều hơn vào cường độ mạch cảm xúc và ý tưởng đại khái hơn là chi tiết phức tạp.[60] Những nhân vật của Swift bên trong các bài hát 1989 đều thôi trách mắng người yêu cũ và những mối quan hệ thất bại như những bài hát trước đây[61][62] và thay vào đó là nhìn nhận sự việc bằng góc nhìn đầy tiếc nuối.[12]

Diana Pearl của Marie Claire nhận thấy nội dung về cảm giác tự do hạnh phúc diễn ra sau khi chia tay và cuộc sống độc thân trong 1989 hoàn toàn khác biệt so với nỗi than khóc cho những chuyện tình đoản mệnh hay cảm nhận về những mối tình đổ vỡ thường thấy ở những album trước của Swift.[63] Swift chia sẻ rằng cô thay đổi thái độ lẫn cảm xúc là do bản thân đã nhìn nhận ra "những câu chuyện tình cảm phức tạp hơn thế". Khi đó, nữ ca sĩ thừa biết bản thân cô gái cũng là người có lỗi trong chuyện tan vỡ, thay vì chỉ biết đổ hết mọi lỗi lầm cho đối phương.[14] Nhà báo Brian Mansfield viết cho USA Today đã diễn giải rằng nội dung các ca khúc mặc dù được dựa vào đời tư của Swift nhưng vẫn gây được tiếng vang với đông đảo khán giả do họ tìm thấy sự đồng cảm và bắt gặp hoàn cảnh tương tự trong bài hát của nữ ca sĩ.[62] Khi tổng hợp mỗi dòng thông điệp bí mật của 13 bài hát ẩn chứa bên trong quyển sách booklet của 1989, những câu viết trong đó trở thành một câu chuyện về cô gái cảm thấy rắc rối trong khi yêu và cuối cùng cô nhận ra rằng, "Tuy nàng đã đánh mất chàng nhưng nàng tìm được chính nàng và đó là mọi thứ theo cách nào đó."[64]

Chủ đề bài hát

Grady Smith từ The Guardian cho rằng chủ đề chính của 1989 là sự khám phá về bản thân. Qua album lần này, Swift trở thành một người trưởng thành có suy nghĩ sâu sắc và tự tin.[64] Cảm xúc của nữ ca sĩ khi lần đầu tiên chuyển nhà đến với thành phố New York đã thôi thúc cô sáng tác nên track mở đầu cho album, "Welcome to New York". Đây là ca khúc synth đã giúp Swift tìm về tự do mới có,[35][49] là lời tri ân đến thành phố New York,[65] qua đó phản ánh sự thay đổi về mặt âm nhạc[29] và thể hiện lời ủng hộ của cô đến với cộng đồng LGBT.[66] "Blank Space" mang giai điệu tối giản chịu ảnh hưởng của hip hop, với ca từ chế giễu hình tượng mà truyền thông nhìn nhận đời tư của Swift cũng như kể về một cô gái hẹn hò với nam giới chỉ để thu thập ý tưởng và sáng tác nhạc.[34][47] Quá trình sáng tác một ca khúc mang âm hưởng funk như "Style" được lấy cảm hứng từ những nghệ sĩ "nhạc funky điện tử" như Daft Punk.[25][67] Lời bài hát kể về mối quan hệ không lành mạnh,[68] và Jordan Sargent của Pitchfork cảm thấy hình tượng cô gái dùng son môi đỏ và một chàng trai trẻ có vẻ ngoài như James Dean chân thật và mãnh liệt đến mức khiến "nét tự nhiên có cảm giác như vô tận".[69] Andre Unterberger từ Spin nhận thấy tính trưởng thành và gợi cảm một cách tế nhị trong ca từ, qua đó "phản ánh sự thay đổi về đối tượng tình cảm" của Swift.[70]

Track thứ tư "Out of the Woods" thuộc thể loại indietronica synth-pop có chứa nhiều đoạn âm thanh hỗn loạn nhờ vào việc tận dụng nặng nề các nhạc cụ organ, đánh phím xếp lớp và giọng nền loop.[31][71] Swift bảo rằng bài hát được dựa vào tình cảm vì lo sợ gặp rắc rối mà luôn cảm thấy bất an. Khi đó, "Out of the Woods" trở thành ca khúc đại diện tiêu biểu nhất cho 1989.[72][73][74] "All You Had to Do Was Stay" kể về cuộc tình đã qua và bài hát được hình thành ngay trong giấc mơ của Swift. Khi đó, nữ ca sĩ đã liên tục hét lên "Stay" với người yêu cũ muốn rời bỏ cô.[75] Ca khúc dance-pop kiêm đĩa đơn mở đường cho 1989 "Shake It Off", có nội dung châm biếm tương tự như "Blank Space". Trong bài hát, Swift đã tỏ ra "tỉnh bơ" trước những lời công kích và nhận xét tiêu cực đến từ những người ghét bỏ hình tượng của cô.[57][76][77] Chính vì "I Wish You Would" sử dụng tiếng trống lẫy nhịp nhàng và tiếng guitar rực cháy nên bài hát bubblegum pop dễ dàng cho thấy Swift khao khát quay trở lại chuyện tình trong quá khứ.[78][79][80] "Bad Blood" là bài hát với phần khí nhạc tiếng trống đập mạnh và nặng nề,[34] kể về một người đồng nghiệp nữ giấu tên phản bội được cho là Katy Perry.[20] Nguyên nhân bắt nguồn từ sự việc Swift cho rằng Perry đã cố gắng phá hoại chuyến lưu diễn của cô dẫn đến mối quan hệ thù địch trong công nghiệp âm nhạc và khiến cho truyền thông đưa tin mạnh mẽ.[12][81]

"Wildest Dreams" tận dụng nhạc cụ dây để lột tả mối tình dan díu với người đàn ông không chung thủy trong bầu không khí ngột ngạt và kịch tính. Swift đã hát những ca từ ngột ngạt về một chuyện tình giấu giếm cam chịu bằng chất giọng run rẩy và thì thầm.[chú thích 1] Đến với "How You Get the Girl", đây cũng là một bản bubblegum pop khác sử dụng strum guitar và giai điệu disco nặng được cho là "quyển cẩm nang dành cho đàn ông" sau khi chia tay. Qua bài hát, Swift cho thấy cô đang có khát khao được trở lại cùng với người yêu cũ.[chú thích 2] Ca khúc thứ mười một trong 1989, "This Love", là một bài hát ballad electropop mang âm hưởng soft rock mà trong đó, Swift sử dụng hình ảnh đại dương làm phép ẩn dụ cho một tình yêu tan biến rồi quay trở lại như thủy triều. Một số nhà phê bình cảm nhận "This Love" là một trong những bài hát buồn nhất của Swift trong album 1989.[29][34][49] Ca khúc áp chót trong phiên bản tiêu chuẩn của 1989 là "I Know Places". Nội dung của bài hát thể hiện ước mong của Swift là được duy trì một mối quan hệ không ổn định. Swift tuyên bố rằng "I Know Places" đóng vai trò là phần tiếp theo lỏng lẻo của "Out of the Woods".[72] Bên cạnh sử dụng đoạn nhạc trống và bass dày đặc và tăm tối, bài hát dùng phép ẩn dụ những con cáo đang cố gắng thoát lui khỏi những kẻ săn lùng để diễn tả một mối tình đang chạy trốn khỏi truyền thông giám sát.[70][82]

Bài hát cuối cùng trong phiên bản tiêu chuẩn, "Clean", là một bản nhạc soft rock nhẹ và synth-folk với nội dung kể về nhân vật chính đang cố gắng đấu tranh để thoát khỏi tình yêu độc hại nhưng dễ gây nghiện. Đến cuối cùng, nhân vật chính cũng "gột rửa" bản thân sau chuyện tình "mưa bão có sức tàn phá".[49][85][86] "Wonderland" là bài đầu tiên trong ba bài hát được bổ sung ở phiên bản Deluxe, với lời ca xuất phát từ bối cảnh truyện cổ tích Alice ở xứ sở thần tiên nhằm diễn tả một cuộc tình rơi vào "hang thỏ".[29] Bản ballad "You Are in Love" được lấy cảm hứng từ tình yêu của Antonoff và Lena Dunham. Ca khúc bàn về một mối quan hệ lý tưởng từ góc nhìn của một người phụ nữ khác, nhờ hàng loạt những hình ảnh "vừa đặc biệt mà cũng rất quen thuộc".[29][87][88] Bài bổ sung cuối cùng "New Romantics" lấy đề tài từ cuộc vận động văn hóa vào cuối thập niên 1970 đến đầu thập niên 1980.[29] Với âm thanh synth-pop mạnh mẽ của những năm 1980, "New Romantics" cho thấy Swift đang khơi lại hy vọng và nghị lực của bản thân sau những nỗi đau mà nữ ca sĩ đã phải chịu đựng,[61][89] cùng phần lời rộn ràng về tuổi trẻ và thể hiện phong thái tự do.[90]

Tiêu đề và thiết kế

Swift quyết định đặt tên album phòng thu thứ năm là 1989 theo năm sinh của bản thân. Cô cho rằng đó là biểu tượng tái sinh hình tượng và nghệ thuật của chính cô.[25][91] Theo như phần ghi chú của album, nữ ca sĩ phụ trách chỉ đạo sáng tạo thiết kế đóng gói album,[26] cũng như lên ý tưởng chụp hình bằng máy ảnh tức thì Polaroid từng phổ biến trong giới nhiếp ảnh những năm 1980.[92][93] Dưới sự chỉ đạo của Swift, Sarah Barlow và Stephen Schofield thực hiện những bức ảnh cho 1989, trong khi Amy Fucci và Austin Hale chịu trách nhiệm thiết kế. Bethany và Josh Newman là chỉ đạo nghệ thuật, còn Lorrie Turk và Joseph Cassell thì làm công việc trang điểm, làm tóc và phục trang.[26]

Ảnh bìa album của 1989 là một bức hình chụp Polaroid của Swift che mất phần mắt ở phía trên. Lúc phỏng vấn với Time, Swift giải thích rằng ảnh bìa của album mang "không khí bí ẩn" và chia sẻ: "Tôi không muốn người khác đọc được DNA cảm xúc trong album này [mà chỉ dựa vào ảnh bìa]. Tôi không muốn họ nhìn thấy một tấm ảnh mỉm cười và nghĩ đây là một album vui vẻ, hay một khuôn mặt sầu não và cho rằng, ồ, đây lại là một đĩa nhạc chia tay."[94][95] Ngoài ra trong hình bìa, nữ ca sĩ còn tô đôi môi màu son đỏ và mặc áo len lavender in hình chụp những con mòng biển đang bay lượn trên bầu trời xanh thẳm.[92][96] Tên chữ cái đầu viết tắt của Swift được viết bằng mực đen ở phía bên dưới góc trái, còn tựa album 1989 thì ở bên dưới góc phải.[93][95]

Đi kèm với chiếc đĩa CD album 1989 là một trong năm xấp 13 hình chụp Polaroid ngẫu nhiên. Tổng cộng có tới 65 hình chụp Polaroid khác nhau,[97] với đề tài đa phần đều mang bối cảnh Swift đi chơi và tạo dáng ở thành phố New York hoặc trong các buổi thu âm cùng với những nhà sản xuất 1989.[98] Những bức hình Polaroid được chụp bằng nghệ thuật out nét (hay còn được gọi là làm mờ ảnh do không lấy nét) với bộ lọc tông màu sepia. Bên dưới hình chụp là những ca từ của các bài hát trong album 1989 do Swift viết bằng mực đen.[93] Giám đốc điều hành của Polaroid Corporation, Scott Hardy, đã tuyên bố rằng ý tưởng Polaroid trong album 1989 giúp hồi sinh những thước phim tức thì, nhất là dành cho những người thuộc tiểu văn hóa hipster vốn đam mê những yếu tố hoài cổ và cổ điển mà công ty Polaroid luôn hướng đến.[99] Năm 2022, Billboard đã gọi bức hình chụp ảnh bìa 1989 là một trong 50 ảnh bìa album xuất sắc nhất mọi thời đại.[100]

1989 còn đính kèm một cuốn tập sách nhỏ (booklet). Mở đầu của tập sách là lời nói đầu của Swift giải thích lý do cô thay đổi hình tượng nghệ thuật, phong cách âm nhạc và bày tỏ mong muốn khám phá bản thân tại thành phố New York. Cuốn booklet này chứa nhiều hình ảnh hậu trường của Swift lúc thu âm cùng Martin, Tedder và Heap, kèm theo đó là ngày chụp cho cô ghi chép lại. Như những album trước, Swift đã lồng vào trứng phục sinh bằng nhiều ký tự in nhỏ trong tập ảnh để chỉ ra ý nghĩa của những bài hát. MTV News đã mô tả những thông điệp này đã "vẽ nên bức tranh của một chàng trai và cô gái yêu nhau sâu đậm nhưng không thể bước tiếp."[98]

Đĩa đơn

Ngày 18 tháng 8 năm 2014, Swift phát hành đĩa đơn mở đường cho 1989, "Shake It Off",[101] dưới định dạng tải kỹ thuật số.[102] Đĩa đơn đạt thành công lớn về thương mại khi trở thành bài hát thứ 22 dẫn đầu bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Hoa Kỳ trong tuần đầu ra mắt. Ngoài ra, "Shake It Off" còn trở thành bài hát có doanh số tiêu thụ trong tuần lớn nhất năm 2014 với 544.000 bản.[103] "Blank Space" xuất hiện trên đài phát thanh Mainstream Top 40, Rhythmic Top 40, Hot AC vào ngày 10 tháng 11 năm 2014.[104] Bài hát đứng hạng nhất trên Hot 100 suốt bảy tuần liên tiếp[105] và giúp Swift trở thành nữ nghệ sĩ đầu tiên có một ca khúc vượt qua một ca khúc khác của chính mình để giành vị trí thứ nhất trên bảng xếp hạng này.[106]

Republic Records ra mắt "Style" làm đĩa đơn phát thanh vào ngày 9 tháng 2 năm 2015.[107] Bài hát đạt hạng 6 trên Hot 100 và xuất hiện trong top 10 suốt 9 tuần liên tiếp.[108] Đĩa đơn bản phối "Bad Blood" hợp tác cùng Kendrick Lamar được phát hành vào ngày 17 tháng 5.[109] Bài hát thực hiện một trong những cú tăng hạng cao nhất lịch sử xếp hạng Billboard và trở thành ca khúc quán quân thứ ba của Swift đến từ 1989 và bài hát số một đầu tiên của Lamar trên Hot 100.[110] Đĩa đơn thứ năm, "Wildest Dreams", vươn lên top 10 bảng xếp hạng Hot 100 và là bài hát quán quân đầu tiên của Swift ở bảng xếp hạng Dance/Mix Show Airplay.[111]

Sau khi phát hành làm đĩa đơn quảng bá vào tháng 10 năm 2014,[112] Swift quyết định chọn "Out of the Woods" làm đĩa đơn chính thức thứ sáu cho 1989.[113][114] Bài hát từng ra mắt ở vị trí thứ 18 trên Hot 100 trong năm 2014.[115] "New Romantics" là đĩa đơn thứ bảy và cũng là cuối cùng trong album được phát hành vào ngày 23 tháng 2 năm 2016.[116][117] 1989 là album đầu tiên kể từ 21 (2011) của Adele có ba đĩa đơn đạt hạng nhất Hot 100.[110] Năm đĩa đơn đầu tiên trích từ album đều vươn đến ngôi quán quân trên bảng xếp hạng phát thanh Adult Top 40Mainstream Top 40,[118][119] cũng như đạt chứng nhận Bạch kim từ Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ (RIAA).[120]

Quảng bá

Phát hành và tiếp thị

Để thúc đẩy doanh số bán 1989, Swift và Big Machine đã triển khai một kế hoạch tiếp thị rộng rãi.[121] Nhà nghiên cứu học thuật truyền thông Maryn Wilkinson nhận định rằng Swift đã xây dựng cá tính "điên rồ" cho album 1989.[122] Wilkinson cho biết, vì Swift luôn gắn liền với hình tượng là một nghệ sĩ chăm chỉ và chân thực thông qua các bài hát đồng quê, nên nếu như cô muốn mạo hiểm chuyển sang dòng nhạc pop "nhân tạo và công nghiệp" thì cô sẽ phải có kế sách khó hiểu để giữ được tính chân thực của bản thân.[123] Swift đã tận dụng mạng xã hội rộng rãi để tương tác với cộng đồng người hâm mộ. Nhằm thu hút một lượng khán giả trẻ tuổi, nữ ca sĩ đã quyết định quảng bá bài hát đồng quê trực tuyến từ trước đó.[124] Thậm chí, Swift còn tận dụng mạng xã hội để đăng tải các bài viết về đời sống riêng tư của chính mình, giúp cho người hâm mộ cảm nhận con người thực tế của cô cũng như củng cố ủng hộ của họ dành cho nữ ca sĩ. Qua đó, cách tiếp thị này còn góp phần gia tăng một lượng người hâm mộ mới bên cạnh lượng người hâm mộ vốn dĩ đã lớn của Swift.[122][125]

Cô đã quảng bá album cùng với các nhãn hàng như Subway, KedsDiet Coke.[126] Một thời gian sau khi hé lộ thông tin trên hệ thống InstagramTwitter,[127][128][129] Swift tổ chức một buổi tọa đàm công bố 1989 tại đỉnh của tòa nhà Empire State vào ngày 18 tháng 8 năm 2014.[43] Tiếp đến, trên trang chủ TaylorSwift.com có mở bán gói đặt trước 1989 gồm ba loại: nhỏ, vừa và lớn. Gói đặt trước loại nhỏ được chào bán 19,89 đô la Mỹ gồm đĩa CD 1989 phiên bản tiêu chuẩn, một gói sáu gảy đàn guitar có in khuôn mặt của Swift trên đó và một ghi chú viết tay của Swift. Gói đặt trước loại vừa có giá 74,89 đô la Mỹ, gồm gói đặt trước nhỏ và bổ sung thêm túi tote, móc chìa khóa, dây buộc tóc và một tấm thạch bản in chín bức hình khuôn mặt biểu cảm "ngớ ngẩn" của Swift. Gói đặt trước loại lớn với giá đắt nhất 198 đô la Mỹ, gồm phiên bản vừa kèm theo chiếc túi đeo sau lưng và chữ ký do Swift ký tên lên tấm thạch bản. Ngoài ra, đĩa vật lý của 1989 còn được bán kèm với đồ dùng như áo thun "Shake It Off", áo tank top "Players Gonna Play" và áo thun tay dài in hình mòng biển đang bay trên trời giống như Swift mặc trên ảnh bìa album.[130]

Trong các tuần lễ kế tiếp, nữ ca sĩ tổ chức nhiều bữa tiệc nghe thử album mang tên "1989' Secret Sessions" dành cho các khán giả hâm mộ. Họ là những người được chính Swift chọn lọc theo dõi và tương tác trên các trang mạng xã hội suốt nhiều tháng liền.[131] Các buổi nghe thử album diễn ra tại nhà riêng của Swift ở thành phố New York, Los Angeles, Nashville, Rhode IslandLuân Đôn.[132][133] Ngày 14 tháng 10, cô phát hành "Out of the Woods" làm đĩa đơn quảng bá[112] và bắt đầu chuỗi ngày hé lộ một đoạn lời cho mỗi bài hát trên tài khoản Instagram.[134] Swift ra mắt đĩa đơn quảng bá tiếp theo, "Welcome to New York" vào ngày 20 tháng 10,[135] do cách biệt về múi giờ nên bài hát được phát hành sớm hơn tại Nga.[136] Sau khi danh sách bài hát của album bị phát tán lên mạng xã hội Twitter,[137] cô chính thức công bố tên của 13 bài hát trong phiên bản tiêu chuẩn của album vào ngày 22 tháng 10.[138] Ngay sau đó, cửa hàng iTunes Canada vô tình làm rò rỉ một đoạn âm thanh đầy tiếng ồn dài 8 giây với tựa đề "Track 3".[139][140] Trước khi bị gỡ khỏi hệ thống tải nhạc số, bản track đã kịp thời vươn lên vị trí số một trên bảng xếp hạng iTunes Canada.[141][142]

1989 bị rò rỉ cách thời điểm phát hành chỉ còn ba ngày.[143] "Blank Space" là bài hát đầu tiên bị đăng tải sớm lên trang YouTube, dẫn đến hãng đĩa Big Machine phải đi "đánh gậy" sau vài tiếng.[144] Lindsey Weber từ Vulture cho rằng vụ việc rò rỉ này bắt nguồn từ Pháp, vì các tập tin được đăng tải bằng ngôn ngữ địa phương.[145] Trong ngày phát hành, Swift trả lời phỏng vấn tại chương trình Good Morning AmericaThe Ellen DeGeneres Show.[146] Lúc 7 giờ tối cùng ngày, cô xuất hiện trên sân thượng tòa nhà Empire State và trình diễn quảng bá album trong một đêm nhạc riêng tư, do Yahoo! MusiciHeartRadio phụ trách phát trực tiếp.[147] Ngày 27 tháng 10 năm 2014, 1989 chính thức ra mắt tại Hoa Kỳ với phiên bản tiêu chuẩn gồm 13 bài hát tại các nhà bán lẻ và trên các nền tảng tải kỹ thuật số.[43][148] Phiên bản Deluxe được phát hành độc quyền thông qua hệ thống Target ở Hoa Kỳ và Canada, gồm có thêm ba bài hát cùng ba đoạn voice memo.[32][149] Cả hai phiên bản của 1989 được phát hành ở Đức[150] và Anh Quốc trong cùng ngày.[151] Hãng Microsoft rao bán trọn bộ album với giá chỉ 0,99 đô la Mỹ thông qua ứng dụng Music Deals.[152] Ngày 17 tháng 2 năm 2015, Swift công bố sẽ lần lượt phát hành "Wonderland", "You Are in Love" và "New Romantics" từng bài dưới dạng tải kỹ thuật số trên iTunes Store.[153]

1989 đạt được thành công thương mại suốt thời gian dài và được mệnh danh là Thriller của thập niên 2010.[154] Tháng 11 năm 2020, Swift bắt đầu tái thu âm sáu album phòng thu đầu tiên, gồm cả 1989.[155] Quyết định này xuất phát từ sự việc nhà quản lý tài năng Scooter Braun chiếm giữ bản thu hoàn chỉnh của sáu album đầu tiên mà Swift đã luôn cố mua lại nhiều năm, sau khi cô rời khỏi Big Machine vào tháng 11 năm 2018.[156]

Dịch vụ phát trực tuyến

"Theo quan điểm của tôi, giá trị của một album chính là trái tim, linh hồn, lòng nhiệt huyết mà nghệ sĩ dốc hết cho công việc của mình, và được xem là giá trị kinh tế khi nó có mặt trên thị trường. Vi phạm bản quyền, chia sẻ hay tải nhạc lậu đã ảnh hưởng mạnh mẽ và thu hẹp số lượng album được bán ra, buộc mỗi nghệ sĩ phải thực hiện những biện pháp xử lý khác nhau."

—Swift giải thích về vị thế của album đối với thị trường âm nhạc đương đại.[157]

Ngày 7 tháng 7 năm 2014, Swift viết một bài xã luận dài xấp xỉ 1.100 từ mang tựa đề "For Taylor Swift, the Future of Music Is a Love Story" trên tờ The Wall Street Journal. Tại đây, cô nhấn mạnh giá trị quan trọng giữa nghệ sĩ và album cũng như đưa ra nhiều dự đoán "mang tính lạc quan" về tương lai của ngành công nghiệp âm nhạc.[158][159] Trước đó vào tháng 1 cùng năm, Borchetta chia sẻ "sự quan ngại sâu sắc" về các dịch vụ streaming với tờ Financial Times: "Tôi nghĩ điều đó làm cho giá trị của nền âm nhạc bị suy giảm [...] Phải tốn rất nhiều thời gian, công sức, tiền của và tài năng để làm được việc này, và nếu cứ cho đi để nhận được những đồng rẻ mạt, sẽ có ngày ta không còn khả năng thực hiện nữa."[160]

Vào ngày 3 tháng 11, hãng Big Machine quyết định thu hồi toàn bộ đĩa nhạc của Swift trên các hệ thống phát trực tuyến, trong đó có Spotify, vì muốn người nghe phải trả tiền và đẩy doanh thu cho nữ ca sĩ cao hơn nữa.[161][162][163] Thông tin của 1989 vẫn xuất hiện trên trang Spotify, nhưng không có ảnh đồ họa, với một dòng thông điệp đơn giản: "Nghệ sĩ hoặc đại diện của họ quyết định không phát hành album này trên Spotify. Chúng tôi đang cố gắng và hy vọng họ sẽ thay đổi ý định trong thời gian ngắn."[160][163] Spotify thúc giục Swift trở lại và khẳng định rằng "người hâm mộ có thể nghe nhạc mọi nơi mọi lúc mà họ muốn, và nghệ sĩ có quyền được trả thù lao và bảo vệ cho tác phẩm của mình".[164][165] Chia sẻ với Time, Swift chỉ rõ việc phát nhạc trực tuyến sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến lượng đĩa trả phí và chỉ trích cấu trúc hệ thống của Spotify. Cô mong muốn "mọi người nên nghĩ đến giá trị mà nhạc sĩ tạo nên."[94] Trong một buổi phỏng vấn vào ngày 7 tháng 11, Borchetta công bố âm nhạc của Swift chỉ còn tồn tại trên các trang phát nhạc trực tuyến có trả phí như Beats Music hay Rhapsody.[162][166]

Tháng 6 năm 2015, người đại diện của Swift xác nhận với Billboard rằng cô từ chối đưa 1989 vào danh mục của hãng Apple Music.[167] Ngày 21 tháng 6, cô đăng tải một bức thư gửi đến Tim Cook và hãng Apple Music mang tựa đề "To Apple, Love Taylor" trên tài khoản Tumblr.[168] Trong bức thư, cô khen ngợi Apple là một trong "những đối tác tài ba nhất trong thị trường âm nhạc" rồi đặt vấn đề về quyết định không trả tiền cho nghệ sĩ trong ba tháng dùng thử miễn phí của người dùng, "Tôi cảm thấy ngỡ ngàng, thất vọng và hoàn toàn ngạc nhiên trước lịch sử tiến bộ và rộng lượng của hãng."[169] Swift đứng lên đại diện cho nhiều đồng nghiệp còn ngại ngần và bảo rằng những "nghệ sĩ hoặc ban nhạc mới chỉ phát hành đĩa đơn đầu tiên mà không được trả phí."[168] Chủ tịch phần mềm Internet và dịch vụ Eddy Cue công bố trên Twitter rằng hãng sẽ thay đổi chính sách và đồng ý trả phí cho nghệ sĩ trong thời gian dùng thử sau khi đọc lá thư của Swift.[170][171] Theo đó, Swift đồng ý đưa 1989 vào hệ thống Apple Music,[172] và góp mặt trong chuỗi quảng bá của Apple Music.[173][174] Ngày 9 tháng 6 năm 2017, Swift đưa toàn bộ đĩa nhạc của mình, trong đó có 1989, trở lại các nền tảng phát nhạc trực tuyến, bao gồm Spotify, Tidal, AmazonPandora.[175][176]

Biểu diễn trực tiếp và lưu diễn

Swift trình diễn trong The 1989 World Tour tại Detroit, Michigan vào tháng 5 năm 2015.

Ngoài việc quảng bá trực tuyến, Swift còn xuất hiện nhiều trên đài phát thanh và truyền hình.[121] Cô biểu diễn tại giải Video âm nhạc của MTV[177]giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2014.[178] Nữ ca sĩ còn xuất hiện trên chương trình trò chuyện như Jimmy Kimmel Live!, The Ellen DeGeneres Show, Late Show with David LettermanGood Morning America.[121] Swift góp mặt biểu diễn tại iHeartRadio Music Festival,[179] buổi hòa nhạc từ thiện "We Can Survive" của CBS Radio,[180] Victoria's Secret Fashion Show[181]Jingle Ball Tour.[182]

Ngày 3 tháng 11 năm 2014, Swift công bố về chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới The 1989 World Tour thông qua tài khoản Twitter,[183] với những tấm vé đầu tiên tại Hoa Kỳ được chào bán từ ngày 14 tháng 11.[184] Chương trình gồm có 85 đêm diễn tại 4 lục địa khác nhau trong vòng 7 tháng[185] và đi qua 55 thành phố.[186] Mở đầu tại Tokyo, Nhật Bản vào ngày 5 tháng 5 năm 2015,[187][188] và kết thúc vào ngày 12 tháng 12 năm 2015 tại Melbourne, Úc.[189] Trong thời gian lưu diễn, Swift đã mời tổng cộng 78 khách mời đặc biệt tham gia trình diễn cùng cô[186][190] và 6 nghệ sĩ mở màn theo ngày chọn lọc: HAIM, Shawn Mendes, Vance Joy, James Bay, Ellie GouldingJohn Newman.[191] Truyền thông gọi những người đồng hành với Swift là "hội bạn thân" của cô.[192]

The 1989 World Tour thu về 250,7 triệu đô la Mỹ trên toàn cầu, trở thành chuyến lưu diễn có doanh thu cao nhất trong năm 2015.[193][194] Tính riêng ở Bắc Mỹ, chương trình đạt trên 180 triệu đô la Mỹ, phá vỡ kỷ lục doanh thu cao nhất mọi thời đại của The Rolling Stones năm 2005, giúp Swift trở thành nữ nghệ sĩ đầu tiên trong lịch sử ngành công nghiệp âm nhạc làm được điều này.[195][196] Swift tự phá kỷ lục chính mình nhờ chuyến lưu diễn Reputation Stadium Tour trong năm 2018.[197] Giới chuyên môn đánh giá The 1989 World Tour nhìn chung là tích cực, với lời khen dành cho màn trình diễn năng động và cách thức dàn dựng của chương trình.[198][199][200] Ngày 13 tháng 12 năm 2015, Swift thông báo phát hành bộ phim tài liệu The 1989 World Tour Live dưới định dạng trực tuyến thông qua Apple Music vào ngày 20 tháng 12. Bộ phim hòa nhạc do Jonas Akerlund đạo diễn và ghi hình vào ngày 28 tháng 11 tại sân vận động ANZ, Sydney trước gần 76.000 người hâm mộ. Ngoài toàn bộ tiết mục biểu diễn, The 1989 World Tour Live còn có những đoạn phim hậu trường và quá trình diễn tập cùng với các khách mời đặc biệt.[201][202]

Đánh giá chuyên môn

Đánh giá chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
AnyDecentMusic?7,4/10[203]
Metacritic76/100[204]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[205]
The A.V. ClubB+[47]
Billboard[44]
Cuepoint (Expert Witness)A−[206]
The Daily Telegraph[85]
Entertainment WeeklyB[207]
The Guardian[208]
Los Angeles Times[67]
NME[49]
Pitchfork7,7/10[61]
Rolling Stone[84]
Slant Magazine[80]
Spin7/10[70]

Sau khi 1989 ra mắt, album đã nhận về nhiều đánh giá nhìn chung là tích cực từ giới chuyên môn đương thời.[8] Trên trang Metacritic tổng hợp điểm đánh giá trung bình của các nhà phê bình với thang điểm 100, album đạt được số điểm là 76, dựa trên 29 bài nhận xét.[204] Còn AnyDecentMusic? thì tổng hợp 28 bài nhận xét và cho album 7,4 trên 10 điểm.[203]

Đa số những nhà phê bình đánh giá cao nét trưởng thành trong việc nhìn nhận tình yêu và cảm giác đau khổ của Swift.[209] Nhà báo Marah Eakin biên tập cho The A.V. Club tán dương bước biến chuyển của nữ ca sĩ trong việc giải phóng bản thân từ những lần trăn trở trong chuyện tình lãng mạn để chấp nhận và hoan hỉ trong giây phút tích cực.[47] Neil McCormick của The Daily Telegraph khen ngợi "tầm nhìn [sắc bén] và yếu tố cảm xúc gắn kết" trong album vốn đối nghịch với lời ca xuất hiện trong các bản nhạc pop thị trường khác.[85] Trong một bài đánh giá 4 trên 5 sao của The Guardian, Alexis Petridis nhận định 1989 hòa hợp hoàn hảo với tính chân thực của synth-pop theo phong cách thập niên 1980 và bảo rằng album "sở hữu những âm điệu không thể chối từ, cùng những đoạn điệp khúc đồ sộ hoàn hảo với những đoạn hook bắt tai. [1989] nghe giống như một tác phẩm được làm lại một cách đằm thắm từ thể loại nhạc pop rock cuối thập niên 80 của MTV, chẳng hạn như Rush Hour của Jane Wiedlin."[208]

Jem Aswad từ Billboard xem 1989 là "dòng nhạc pop tinh vi và xứng đáng được công nhận rộng rãi ở thị trường thương mại".[44] Andy Gil đến từ The Independent phong tặng album này 3 trên 5 sao, cho rằng 1989 là tập hợp của "những nét tương phản rõ ràng, những biến đổi bất thình lình và hình tượng gây mâu thuẫn" và các bài hát đang cố gắng "tóm lược những biến chuyển cảm xúc sâu sắc bằng những ca từ nổi bật".[210] Trong một bài đánh giá trên Time, Sam Lansky cho rằng "những âm thanh chuyên nghiệp, tinh xảo của 1989 đánh dấu tay nghề ấn tượng khi [Swift] chuyển mọi sự quan tâm của khán giả xoay quanh chuyện cá nhân sang các giá trị âm nhạc, một hành động rất thông minh và đầy tự tin."[34] Craig Manning từ AbsolutePunk cảm thấy việc "tách ra khỏi dòng nhạc đồng quê và chuyển sang nhạc pop" có thể là bước chuyển mình lớn nhất trong sự nghiệp của Swift trong suốt 5 năm trở lại.[211]

Tuy nhiên, thể loại nhạc synth-pop thập niên 1980 trong 1989 đã vấp phải những nhận xét trái chiều từ các cây bút. Trong một bài đánh giá nhiệt tâm của Jon Caramanica từ The New York Times, sau khi cảm nhận album "tràn ngập các bài hát được xây dựng chuyên nghiệp và nhẹ nhàng về nỗi đau", nhà báo đúc kết nhận xét bằng lời khen cho Swift đã tránh xa các xu hướng kết hợp giữa hip hop/R&B đương đại và bảo rằng, "Cô Swift đang hướng tới đâu đó thậm chí còn cao xa hơn. Đây là một phong cách đi trước thời đại mà ít có ngôi sao nhạc pop thực thụ nào thèm quan tâm."[35] Cộng tác viên lâu năm Rob Sheffield trên Rolling Stone đã phong tặng album 4 sao. Anh cảm thấy album "kỳ quặc một cách sâu sắc, xúc cảm một cách cuồng nhiệt, nhiệt tình một cách hoang dại, 1989 nghe hệt như [Swift], cho dù không giống với bất kỳ thứ gì mà cô ấy từng thử nghiệm trước đây."[84] Trên Cuepoint, mặc dù nhà phê bình Robert Christgau hoan nghênh Swift đã từ bỏ nhạc đồng quê để khám phá những phong cách mới, nhưng ông cảm thấy quá trình thay đổi của nữ ca sĩ không triệt để dứt khoát.[206] Matthew Horton từ NME mô tả 1989 là một "hiện tượng nhạc pop" và khen ngợi Swift "kiên quyết cắm lá cờ của mình trong lãnh địa dòng nhạc pop". Anh nhận định quá trình chuyển đổi sang nhạc pop của Swift là "một thành công", ngoại trừ việc nữ ca sĩ đã đưa "tạp nham soft-rock" vào "This Love" và "Clean".[49] Cây bút Shane Kimberlin của tạp chí musicOMH cho rằng quá trình chuyển đổi sang nhạc pop trên 1989 của Swift là "không hoàn toàn thành công". Tuy nhiên, anh vẫn ca tụng lời bài hát của cô đã kết hợp "đủ tình thái và cá tính" vốn hiếm thấy trong nền nhạc đại chúng.[212]

Nhiều nhà phê bình đã bắt bẻ rằng việc Swift chuyển từ nhạc đồng quê sang nhạc pop đã làm suy giảm tính chân thực trong âm nhạc của cô, đặc biệt "bản chất chủ nghĩa tư bản" của thể loại pop hoàn toàn tương phản với tính chân thực mạnh mẽ của đồng quê.[213][214] Annie Galvin bên Slant Magazine nhận xét rằng việc Swift vẫn duy trì lối sáng tác thông minh nên đã tạo sự khác biệt cho các bản phát hành trước đó của cô, nhưng lại đáng thất vọng với phong cách âm nhạc mới.[80] Adam Markovitz của Entertainment Weekly phê bình Swift "đang cố gắng giành chiến thắng ở cuộc chơi của kẻ khác, gọt đẽo những ca từ về thứ tình yêu đại trà trên lối nhạc của đàn synthesizer."[207] Tương tự, người viết tạp chí Andrew Unterberger cho Spin chỉ trích Swift sử dụng đàn Organ tổng hợp âm nặng nề đã làm nhấn chìm lời bài hát trong nền nhạc.[70] Stephen Thomas Erlewine của AllMusic diễn tả 1989 giống như một bản nhạc nền tinh xảo thể hiện lối sống đầy khát vọng nhưng tài nào không vượt qua được "sự trong suốt nhất thời của nhạc pop hiện đại",[205] còn Mikael Wood lên bài nhận xét bên Los Angeles Times thì cho rằng album này không chân thực nhưng anh vẫn thừa nhận nỗ lực của Swift trong việc mô phỏng âm nhạc của thời đại mà nữ ca sĩ chưa từng trải qua.[67] Trên New York Daily News, Jim Farber nhận định album này của Swift "mang tính thoái bộ, tươi tắn và non trẻ nhất từ trước tới nay", cũng như xem đây là "tác phẩm sáo rỗng và ít quan trọng nhất của cô ấy".[215] Cây viết Emma Dibdin từ Digital Spy gọi 1989 là "sản phẩm dễ chịu, bắt tai và mang nhiều dự tính nhất mà Swift từng sản xuất", nhưng lại là "album ít mang tính cá nhân nhất của cô ấy cho đến hiện nay".[216]

Giải thưởng và thành tựu

1989 thắng nhiều giải thưởng lớn trong ngành công nghiệp âm nhạc gồm có Album Pop/Rock được yêu thích nhất tại giải thưởng Âm nhạc Mỹ,[217] Album của năm (Phương Tây) tại giải thưởng Đĩa vàng Nhật Bản năm 2015[218] và Album của năm tại giải thưởng Âm nhạc iHeartRadio năm 2016.[219] Album nhận về những đề cử như Album Pop/Rock quốc tế xuất sắc nhất tại giải thưởng Âm nhạc Echo,[220] Album quốc tế của năm tại giải Juno,[221]Album quốc tế xuất sắc nhất tại Los Premios 40 Principales năm 2015.[222] Tại giải Grammy lần thứ 58 vào năm 2016, 1989 đoạt giải Album của nămAlbum giọng pop xuất sắc nhất.[223] Swift lập kỷ lục là nghệ sĩ nữ đầu tiên thắng giải Album của năm hai lần, lần đầu tiên là Fearless (2008) vào năm 2010.[224]

Nhiều ấn phẩm xếp 1989 vào danh sách xuất sắc nhất năm 2014. Các nhà xuất bản chọn album vào danh sách top 10 gồm có Billboard (1),[225] American Songwriter (4),[226] Time (4),[227] The Daily Telegraph (5),[228] The Music (5),[229] Drowned in Sound (6),[230] Complex (8),[231] and Rolling Stone (10).[232] Các nhà xuất bản khác liệt kê 1989 vào danh sách gồm The Guardian,[233] The A.V. Club,[234] PopMatters,[235] Pitchfork,[236]MusicOMH.[237] Album xếp hạng 7 trong cuộc khảo sát nhà phê bình đại trà Pazz & Jop bên The Village Voice vào năm 2014[238] và góp mặt trong danh sách theo ý kiến cá nhân giới chuyên môn như Jon Caramanica bên The New York Times (7),[239] Ken Tucker bên NPR (3),[240]Brian Mansfield bên USA Today (1).[241]

Diễn biến thương mại

1989 là album bán chạy nhất tại Hoa Kỳ trong tuần đầu tiên kể từ The Eminem Show (2002) của Eminem.[242]

1989 đạt 1,287 triệu bản trong tuần đầu phát hành tại Hoa Kỳ và ra mắt ở vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard 200, trong đó gồm 647.000 đĩa thực và 640.000 bản tải kỹ thuật số tính tới hết ngày 2 tháng 11 năm 2014.[242][243] Lượng album bán với giá 0,99 đô la Mỹ qua hãng Microsoft không được tính, do chính sách loại bỏ lượng đĩa bán với giá dưới 3,99 đô la Mỹ trong 4 tuần đầu ra mắt của Nielsen SoundScan.[244] Album phá kỷ lục doanh số của chính Swift, là album thứ 19 bán hơn một triệu bản ở tuần đầu tiên lên kệ trong lịch sử số liệu của SoundScan. Đây là tuần đạt doanh số bán chạy thứ bảy trong lịch sử, kể từ The Eminem Show (2002) của Eminem. Swift cũng là nghệ sĩ đầu tiên có trong tay ba album tiêu thụ hơn một triệu bản trong tuần đầu.[245] Album vượt hai triệu bản và tiếp tục dẫn đầu Billboard 200 trong tuần phát hành thứ hai và thứ ba.[246][247][248] Trong tuần lễ ngày 13 tháng 12 năm 2014, 1989 là album đầu tiên đạt hạng nhất sau khi Billboard 200 sáp nhập hoạt động phát trực tuyến vào cơ chế ước tính, với 339.000 đơn vị album tương đương (trong đó có 281.000 bản album thực).[249] Album tiếp tục tiêu thụ thêm 200.000 bản trong mỗi 10 tuần sau khi ra mắt, thành tích mà Usher cùng Confessions đạt được năm 2004.[250] 1989 bán hơn 3,6 triệu bản trong năm 2014 và là album bán chạy nhất năm tại Hoa Kỳ, vượt mặt Ghost Stories của Coldplay.[242][251][252]

Đến tuần lễ ngày 18 tháng 1 năm 2015, 1989 đã bán được hơn 4 triệu bản,[253][254] trở thành album đầu tiên đạt thành tích này kể từ Red vào tháng 2 năm 2014.[255] Cuối tháng 2 năm 2015, trong tuần phát hành thứ 15, 1989 dẫn đầu bảng xếp hạng tại Hoa Kỳ trong 11 tuần không liên tiếp, biến Swift trở thành nữ nghệ sĩ có số tuần dẫn đầu Billboard của tất cả các album cao thứ nhì, đứng sau Whitney Houston.[252][256] Đây là một trong 9 album duy nhất có 24 tuần phát hành đầu tiên lọt vào top 5 Billboard 200, kể từ 1963.[257] Ngày 13 tháng 3 năm 2015, Billboard thông báo 1989 đã vượt doanh số của RedSpeak Now tại Hoa Kỳ, chỉ sau 19 tuần phát hành.[258] 1989 vượt qua 5 triệu bản tiêu thụ ở Hoa Kỳ tính đến tháng 7 năm 2015, trở thành album bán chạy nhất tính từ năm 2004.[chú thích 3] Ngày 27 tháng 10 năm 2015, 1989 trở thành album thứ năm trong lịch sử đạt top 10 Billboard 200 trong suốt một năm đầu tiên ra mắt.[261] Kể từ tuần thứ 54, 1989 không còn nằm trong top 10 nữa.[262] Tính đến tháng 8 năm 2022, album dành ra tổng cộng 500 tuần trụ bảng xếp hạng Billboard 200.[263][264] Với 6,215 triệu bản tính đến cuối năm 2019, 1989 trở thành album bán chạy thứ ba trong thập kỷ 2010 tại Hoa Kỳ.[265] Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) chứng nhận cho album đĩa 9× Bạch kim.[266] Tính đến tháng 8 năm 2023, 1989 đã bán được 12,3 triệu đơn vị tương đương tại Hoa Kỳ.[267]

Tại Canada, 1989 mở đầu tại ngôi quán quân với 107.000 bản[268] và bán chạy nhất kể từ năm 2008.[268][269] Album tiếp tục trở thành sản phẩm bán chạy nhất năm 2014 tại quốc gia này với 314.000 bản tiêu thụ.[270] Tại Anh Quốc, 1989 đạt 90.000 bản chỉ trong vòng bảy ngày ra mắt, trở thành album thành công nhất của một nữ nghệ sĩ trong năm 2014.[271] Đến tháng 4 năm 2016, album đã bán ra 1,03 triệu bản tại Anh Quốc,[272] và đạt chứng nhận 6× Bạch kim từ British Phonographic Industry (BPI).[273] Tại Úc, đây là album thứ ba liên tiếp của Swift đạt đến ngôi quán quân,[274] với doanh số 43.428 bản trong chưa đầy bốn ngày đầu[275] và giành danh hiệu album bán chạy nhất của năm.[276] Ở thị trường các quốc gia châu Á–Thái Bình Dương, 1989 được chứng nhận Bạch kim ở Nhật Bản và Singapore,[277][278] và trở thành một trong album số bán chạy nhất ở Trung Quốc nhờ vào trên một triệu bản được tẩu tán ở quốc gia này tính tới tháng 8 năm 2019.[279]

Theo Liên đoàn Công nghiệp ghi âm quốc tế, 1989 bán 6 triệu bản năm 2014[280] và 3,5 triệu bản năm 2015 trên toàn cầu.[281] Đến năm 2022, 1989 trở thành album bán chạy nhất của Swift với 14 triệu bản đã được tẩu tán trên toàn thế giới.[214] 1989 còn vươn lên vị trí số một ở bảng xếp hạng tại nhiều quốc gia như Bỉ,[282] Ireland,[283] Hà Lan,[284] New Zealand,[285] Na Uy[286] và Hà Lan.[284] Album được chứng nhận đa Bạch kim ở nhiều nước như Úc (11× Bạch kim),[287] Áo (3× Bạch kim),[288] Bỉ (4× Bạch kim),[289] New Zealand (9× Bạch kim),[290] và Na Uy (3× Bạch kim).[291] Sau khi Swift tổ chức chuyến lưu diễn The Eras Tour vào tháng 3 năm 2023, doanh số và lượt phát trực tuyến ở toàn bộ đĩa nhạc của nữ ca sĩ tăng cao đột biến.[292] 1989 vươn lên vị trí cao nhất tại bảng xếp hạng album ở Hy Lạp (1),[293] Áo (4),[294] Thụy Điển (17).[295] Album góp mặt tại các bảng xếp hạng mới ở Argentina (1),[296] Uruguay (7),[297] và Iceland (25).[298]

Phân tích

Lượng doanh số của 1989 thu hút sự chú ý của dư luận trong nhiều tháng liền, khi được kỳ vọng có thể tạo nên cú hích trong lúc diễn ra cuộc khủng hoảng ngành công nghiệp âm nhạc tại Hoa Kỳ. Ben Sisario của The New York Times cho rằng sự lên ngôi của dịch vụ streaming và quyết định từ bỏ phong cách nhạc đồng quê "có thể làm tổn hại tới doanh số bán của Swift".[299] Tương tự, báo cáo của Billboard cho thấy nguy cơ "nhiều người hâm mộ nhạc đồng quê có thể bỏ rơi Swift vì cô chuyển sang dòng nhạc pop" và thị trường "tụt giảm thảm hại" là nguyên nhân khiến họ lo ngại về lượng bán của 1989.[300] Anthony DeCurtis của Rolling Stone gọi sự kiện phát hành 1989 "sẽ là một phép thử quỳ tím cho cả ngành công nghiệp. Chưa một album nào trong năm đạt tới chứng nhận Bạch kim—ngay cả Beyoncé—vì chẳng ai bỏ tiền mua album nữa".[144] Khi album bị rò rỉ chỉ vài ngày trước khi ra mắt, DeCurtis tin rằng doanh số sẽ không bị ảnh hưởng, vì "người hâm mộ của Taylor Swift trung thành một cách bất thường. Tôi không tin có người muốn trả tiền cho 1989 lại bị lung lay bởi vụ rò rỉ."[144]

Ba tuần trước khi ra mắt, giới phân tích nhận định 1989 có thể bán ra 750.000 bản trong tuần đầu, vì "sự xuống dốc đồng bộ trên thị trường và tiến triển ảm đạm của một vài sản phẩm lớn vào thời gian đó".[301] Ngày 21 tháng 10 năm 2014, Steve Knopper từ Rolling Stone cho rằng đây có thể là album cứu vãn một "năm doanh thu tồi tệ", với 600.000 đến 750.000 bản trong bảy ngày đầu ra mắt.[302] Sáu ngày sau, Billboard cho rằng "còn quá sớm để biết album này liệu có vượt mốc một triệu hay không" và đưa ra ước lượng hơn 800.000 bản.[303] Tạp chí này nâng cao dự đoán lên 900.000 bản vào nửa ngày phát hành đầu tiên,[304] rồi lên thành một triệu bản vào ngày 28 tháng 10. Chỉ trong ngày lên kệ đầu tiên, các chuyên gia tự tin rằng 1989 sẽ vượt mốc một triệu bản và trở thành album bán chạy nhất năm bằng doanh số tuần đầu.[146] Ước lượng tiếp tục tăng lên từ 1,2 triệu trong chưa đầy 48 tiếng phát hành,[300][305] cho đến con số cao nhất là 1,3 triệu bản vào ngày 2 tháng 11 năm 2014.[306][307]

Theo hãng Apple, 1989 phá vỡ kỷ lục đặt mua của Midnight Memories (2013) mà ban nhạc One Direction nắm giữ tại cửa hàng iTunes Hoa Kỳ.[305] Trong ngày phát hành đầu tiên, album tiêu thụ khoảng 600.000 bản, chủ yếu dựa trên hệ thống TargetiTunes.[146] Tính đến ngày 29 tháng 10, album đạt 751.000 bản từ 6 thị trường khác nhau.[308] Theo thống kê của Billboard, doanh số tuần đầu của 1989 tiêu thụ ở 10 hãng bán lẻ khác nhau, đứng đầu là iTunes (616.000) và Target (474.000),[300] chủ yếu tại các tiểu bang Nam Đại Tây DươngTrung Nam Hoa Kỳ.[309] Trên bảng xếp hạng Billboard 200, 1989 mở đầu tại ngôi quán quân, với ước lượng thành tích xuất phát bằng doanh số của các album xếp từ vị trí thứ 2 đến vị trí thứ 107 trong tuần lễ đó gộp lại.[310] Brian Mansfield từ USA Today ước tính cứ mỗi giây trôi qua thì lại có từ hai bản trở lên được bán ra, chiếm 22% trong toàn bộ thị trường âm nhạc trong tuần lễ đó.[301]

Billboard phân tích thành công thương mại của 1989 là nhờ vào tần suất xuất hiện dày đặc của cô trên sóng truyền hình và phát thanh, những hiện vật đính kèm album và nói không với cơ sở streaming trực tuyến.[300] Sisario chú ý tới chiến dịch quảng bá "rộng rãi nhất có thể" thông qua các sản phẩm nhượng quyền và mạng xã hội đã giúp cô bù đắp những nguy cơ thất bại.[299] Báo cáo của Zack O'Malley Greenburg từ Forbes cho thấy ngoài Swift, không nghệ sĩ nào khác có album phát hành trong năm 2014 chạm mốc 1 triệu bản và gọi đây "có thể là đĩa Bạch kim cuối cùng của mọi thời đại", nhấn mạnh vào sự ảnh hưởng doanh số do dịch vụ streaming trực tuyến đang phát triển.[311] Luật gia ngành giải trí Lori Landew chia sẻ: "Tôi muốn tin rằng thành công của 1989 là dấu hiệu vực dậy nền công nghiệp đĩa hát. Nhưng rồi tôi buộc phải tin rằng điều đó không đúng. Sự thành công đến nhờ một cộng đồng hâm mộ hùng hậu và trung thành".[312]

Di sản

Ảnh hưởng văn hóa

1989 đã làm thay đổi hình tượng của Swift từ một ca sĩ đồng quê sang một biểu tượng nhạc pop.[313][314] Theo cây viết Raisa Bruner đến từ Time, "1989 đã vĩnh viễn làm thay đổi công nghiệp âm nhạc và đã củng cố vị trí của Swift không chỉ với tư cách là một nghệ sĩ chạy đường dài mà còn là một ngôi sao sáng tạo âm nhạc theo cách riêng của cô ấy."[315] Đây còn là album thứ hai có nhiều hơn năm đĩa đơn top 10 tại Hoa Kỳ trong thập kỷ 2010,[chú thích 4] và đưa Swift trở thành nghệ sĩ nữ thứ hai có hai album sở hữu năm bản hit top 10 tại Hoa Kỳ.[chú thích 5] Các đĩa đơn trong album 1989 được phát đi phát lại rất nhiều lần ở nhiều trạm phát thanh Mỹ suốt một năm rưỡi tính từ ngày được cho ra mắt, và đến cả Billboard còn phải công nhận đây là "một kiểu văn hóa hiện diện khắp nơi" hiếm có đối với một album được ra lò vào những năm 2010.[318] Học giả nhân văn Shaun Cullen đã gọi Swift là một hình mẫu của "đỉnh cao nhạc pop hậu thiên niên kỷ".[319] Swift tiếp tục đưa âm thanh pop của thập niên 1980 xuất phát từ 1989 lên những album tiếp theo chẳng hạn như Reputation (2017), Lover (2019) và Midnights (2022).[192][320] Antonoff thì tiếp tục hợp tác với Swift trong những album đó cũng như với nhiều nhạc sĩ khác dẫn đến thành công thương mại. Anh đã ghi công Swift là "người đầu tiên" công nhận anh là một nhà sản xuất âm nhạc.[320]

Ryan Adams biểu diễn
Ryan Adams (hình) đã phát hành album hát lại từng bài trong 1989 vào tháng 9 năm 2015.

Các nghệ sĩ đã công nhận 1989 là cảm hứng sáng tác như ca–nhạc sĩ Conan Gray,[321] diễn viên kiêm nhạc sĩ Jared Leto,[322] và ban nhạc pop The Vamps. The Vamps đã khơi gợi ý tưởng từ 1989 để làm nên album Wake Up (2015) của họ.[323] Đạo diễn Jennifer Kaytin Robinson đã gọi 1989 là nguồn cảm hứng để cô cho ra mắt bộ phim điện ảnh đầu tay, Someone Great (2019).[324] Ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát Ryan Adams đã phát hành album hát lại từng bài trong 1989 vào tháng 9 năm 2015 vì đây là bản ghi "rộn ràng" đã giúp anh vượt qua được nỗi đau do hôn nhân của anh đổ vỡ vào cuối năm 2014.[325] Trong phần trình diễn, Adams đã kết hợp các nhạc cụ acoustic, đối nghịch với nền nhạc điện tử của bản gốc.[326][327] Swift bày tỏ thích thú với bản cover của Adams và nói với anh rằng, "Những gì anh đã làm với album của tôi giống như các diễn viên đang thay đổi điểm nhấn vậy."[328]

Song hành cùng thành công của 1989, hình tượng siêu sao nhạc pop của Swift từ đây trở thành một chủ đề để truyền thông đeo bám. Mặc dù Swift tự nhận chính mình là một người ủng hộ nữ quyền,[329] nhưng nhiều người cho rằng việc cô kết thân và xuất hiện cùng với các ca sĩ và người mẫu thời trang mà giới truyền thông gọi là "hội bạn thân" của cô là chỉ để giữ tên tuổi của mình nổi bật trên các đầu đề báo giới.[192] Giáo sư về văn hóa đại chúng và phim ảnh Kristy Fairclough nhấn mạnh "nghệ thuật thẩm mỹ và tính chân thành đang thay đổi của cô ấy, vốn gây khó hiểu trong câu chuyện tổng thể, đã góp phần đưa Taylor Swift trở thành trung tâm của cả vũ trụ văn hóa."[192] Sau những lần tranh chấp với một số người nổi tiếng gồm cả rapper Kanye West, các ca khúc của Swift đã giảm đi tính chân thực mà cô vẫn duy trì.[174][330] Swift tuyên bố tạm dừng hoạt động kéo dài sau The 1989 World Tour vì "mọi người có thể cần tránh xa [cô ấy]."[174] Album tiếp theo Reputation ra đời là nhờ cảm hứng xoay quanh truyền thông náo động và danh tiếng của cô.[331]

Tái đánh giá

Sau khi Adams ra mắt album hát lại 1989 vào năm 2015, Pitchfork đã vấp phải chỉ trích vì chỉ chăm chú đánh giá nhạc phẩm của anh trong khi bỏ qua album gốc của Swift.[332] Trên tạp chí New Statesman, Anna Leszkiewicz đã viết rằng "các nhà phê bình âm nhạc trí tuệ nhất" đã khen ngợi Adams trong việc biến 1989 của Swift từ một album "sến súa" thành một album nghiêm túc hơn.[333] Nhà triết học Alison Stone lên tiếng rằng cách đón nhận như thể thật chất là do mê rock và có thái độ phân biệt giới tính. Theo Stone, báo chí âm nhạc cho rằng nhạc pop của Swift mang những phẩm chất "nữ tính" là "hời hợt và tầm thường". Họ đánh giá nữ ca sĩ thấp kém hơn so với indie rock và danh tính "ca sĩ–nhạc sĩ" của Adams ở góc độ chân thực và ý nghĩa.[334] Stone và Forrest Wickman phía tờ Slate khẳng định đây là xu hướng của Pitchfork và các nhà phê bình nhạc rock khác là thích những nhạc sĩ nam giới và "sắc sảo" hơn là những nghệ sĩ "chính thống".[332][335]

Về sau, các bài đánh giá đã nhìn nhận 1989 là một sự thành công về mặt nghệ thuật. Người viết tạp chí Ellen Johnson cho Paste bảo rằng đó là "một trong những album nhạc pop Mỹ hay nhất mọi thời đại",[336]Alex Bilmes đến từ Esquire đã xem 1989 là kiệt tác của Swift cũng như một tác phẩm kinh điển hiện đại.[337] Nhà báo Ian Gormely đảm nhận bên The Guardian đã phát biểu rằng 1989 đã khiến Swift trở thành chất xúc tác cho chủ nghĩa nhạc pop lạc quan và phê phán các khán giả nhạc "indie" đã chối từ phần lớn nhạc pop "chính thống".[338] Lucy Ford bên GQ cho biết, bằng cách theo đuổi synth-pop, Swift đã "[chứng minh] các thể loại không biểu thị tính chân thực".[339] Đối với nhiều nhà phê bình, 1989 chính là một nhạc phẩm nổi bật trong làng âm nhạc đương đại vì Swift cố tình lãng tránh các xu hướng hip hop đương đại để kết hợp những ảnh hưởng âm nhạc của những năm 1980/1990, khiến 1989 trở thành một album đầy tham vọng với âm hưởng hoài cổ và cổ điển.[chú thích 6] Rob Freeman bên BBC đã diễn tả âm thanh của album là "retrofuturism" (viễn tưởng và hoài cổ).[342] Nhà báo Hannah Mylrea trực thuộc NME tán dương 1989 là album hay nhất của Swift nhờ vào quá trình phối khí tinh tế và tài sáng tác ca từ sắc sảo.[343] Kelsey Barnes từ Alternative Press và Annie Galvin viết cho Slant Magazine đồng tình quan điểm rằng album đã thúc đẩy quyền tự chủ nghệ thuật của Swift trong việc thử nghiệm những âm thanh và phong cách sáng tác khác nhau.[344][345] Một vài nhà phê bình như Lucy Harbron của Clash và Neil Smith từ BBC đã gọi 1989 là tác phẩm tiên phong dành cho bất cứ nghệ sĩ nào muốn thử nghiệm vượt ra ngoài ranh giới nhận thức âm nhạc của họ.[346][347]

Nhiều ấn phẩm đã xếp hạng 1989 trong số những album xuất sắc thập niên 2010. Theo Metacritic, đây là album được đánh giá cao thứ 16 trong danh sách cuối thập kỷ.[348] The A.V. Club[349]Slant Magazine xếp 1989 vào danh sách top 10,[350] và album còn góp mặt trong danh sách top 50 theo Billboard,[351] Consequence,[154] NME,[352] Paste,[353] Rolling Stone[354]Uproxx.[355] Consequence đặt 1989 ở vị trí thứ sáu trong danh sách những album nhạc pop hay nhất thập niên 2010,[356] còn Chris Willman soạn báo cho Variety thì đưa album lên hàng đầu trong danh sách cảm nhận của anh.[357] The Guardian đã xướng 1989 ở vị trí thứ 89 trong danh sách 100 album hay nhất thế kỷ 21 năm 2019.[358] Ed Potton bên The Times gọi đó là "album của thế kỷ".[359] Trong khảo sát độc giả của Pitchfork vào cuối thập kỷ 2010, 1989 đứng thứ 44 trong cuộc bình chọn.[360] 1989 nằm ở vị trí thứ 393 trong tái bản 2023 500 album vĩ đại nhất của Rolling Stone,[361] và thứ 39 trong danh sách 100 album vĩ đại nhất Consequence vào năm 2022.[362]

Tái thu âm năm 2023

Năm 2018, Swift rời khỏi Big Machine và ký bản hợp đồng mới với Republic Records.[363] Tuy nhiên, cô đã vướng phải một cuộc tranh chấp quyền sở hữu tác phẩm vào giữa năm 2019 với người quản lý tài năng Scooter Braun, nguyên nhân bắt nguồn từ việc Braun đã mua lại Big Machine Records kèm theo các bản thu hoàn chỉnh những album trước đó của nữ ca sĩ dưới sự phát hành từ phía hãng đĩa cũ.[364] Sau khi cân nhắc lựa chọn thì cuối cùng, Swift quyết định tái thu âm sáu album phòng thu đầu tiên vào tháng 11 năm 2020.[365][366] Bằng việc tái thu âm, Swift sẽ có toàn bộ quyền sở hữu bản thu mới, cho phép cô tự cấp phép chính mình sử dụng những bản nhạc tái thu âm với mục đích thương mại và hy vọng thay thế được các phiên bản thuộc quyền sở hữu của Big Machine.[367] Swift đã tái thu âm 1989 và phát hành dưới tên gọi Taylor's Version vào ngày 27 tháng 10 năm 2023, đúng chín năm sau từ ngày phát hành bản gốc. 1989 là dự án tái thu âm thứ tư của Swift sau Fearless (2021), Red (2021) và Speak Now (2023).[368] Danh sách ca khúc tiêu chuẩn của 1989 (Taylor's Version) chứa các phiên bản thu âm lại của tất cả các bản nhạc trên phiên bản Deluxe của 1989, và kèm theo đó là năm bản nhạc "From the Vault" chưa được phát hành.[369] Sau khi Swift ấn định ra mắt 1989 (Taylor's Version), album gốc đã quay trở lại top 10 của bảng xếp hạng Billboard 200 ngày 26 tháng 8 năm 2023.[370]

Danh sách ca khúc

1989 – Danh sách ca khúc phiên bản tiêu chuẩn
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Welcome to New York"
3:32
2."Blank Space"
  • Martin
  • Shellback
3:51
3."Style"
  • Martin
  • Shellback
  • Payami
3:51
4."Out of the Woods"
  • Swift
  • Antonoff
  • Martin[a]
3:55
5."All You Had to Do Was Stay"
  • Swift
  • Martin
3:13
6."Shake It Off"
  • Swift
  • Martin
  • Shellback
  • Martin
  • Shellback
3:39
7."I Wish You Would"
  • Swift
  • Antonoff
3:27
8."Bad Blood"
  • Swift
  • Martin
  • Shellback
  • Martin
  • Shellback
3:31
9."Wildest Dreams"
  • Swift
  • Martin
  • Shellback
  • Martin
  • Shellback
3:40
10."How You Get the Girl"
  • Swift
  • Martin
  • Shellback
  • Martin
  • Shellback
4:07
11."This Love"Swift4:10
12."I Know Places"
  • Swift
  • Tedder
  • Swift
  • Tedder
  • Zancanella
3:15
13."Clean"
  • Swift
  • Heap
4:30
Tổng thời lượng:48:41
1989 – Các track bổ sung ở phiên bản Deluxe
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
14."Wonderland"
  • Swift
  • Martin
  • Shellback
  • Martin
  • Shellback
4:05
15."You Are in Love"
  • Swift
  • Antonoff
  • Swift
  • Antonoff
4:27
16."New Romantics"
  • Swift
  • Martin
  • Shellback
  • Martin
  • Shellback
3:50
Tổng thời lượng:60:23
1989 – Các track bổ sung ở phiên bản CD Deluxe
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
17."I Know Places" (piano/giọng ghi âm)
  • Swift
  • Tedder
Swift3:36
18."I Wish You Would" (track/giọng ghi âm)
  • Swift
  • Antonoff
Swift1:47
19."Blank Space" (guitar/giọng ghi âm)
  • Swift
  • Martin
  • Shellback
Swift2:11
Tổng thời lượng:68:37

Ghi chú

  • ^a nghĩa là nhà sản xuất giọng hát
  • ^b nghĩa là nhà sản xuất bổ sung

Đội ngũ sản xuất

Đội ngũ tham gia sản xuất 1989 dựa trên phần bìa ghi chú.[26]

Bảng xếp hạng

Xếp hạng thập niên

Bảng xếp hạng cuối thập niên 2010 của 1989
Bảng xếp hạng (thập niên 2010) Vị trí
Album Úc (ARIA)[483] 8
Album Canada (Billboard)[484] 5
Album Anh Quốc (OCC)[485] 25
Album Hoa Kỳ Billboard 200[486] 2

Xếp hạng mọi thời đại

Bảng xếp hạng mọi thời đại của 1989
Bảng xếp hạng Vị trí
Album Ireland nữ (IRMA)[chú thích 7] 36
Album Hoa Kỳ Billboard 200[chú thích 8] 64
Album Hoa Kỳ Billboard 200 – Nữ[chú thích 9] 5

Chứng nhận và doanh số

Chứng nhận của 1989 cùng với doanh số thuần nếu có
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Úc (ARIA)[287] 11× Bạch kim 770.000double-dagger
Áo (IFPI Áo)[288] 3× Bạch kim 45.000*
Bỉ (BEA)[289] 4× Bạch kim 120.000double-dagger
Brasil (Pro-Música Brasil)[492] Bạch kim 40.000*
Brasil (Pro-Música Brasil)[492]
Doanh số kỹ thuật số
Vàng 20.000*
Canada (Music Canada)[493] 6× Bạch kim 542.000[chú thích 10]
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[494] 2× Bạch kim 40.000double-dagger
Pháp (SNEP)[495] Bạch kim 100.000double-dagger
Đức (BVMI)[496] Bạch kim 200.000double-dagger
Ý (FIMI)[497] Bạch kim 50.000double-dagger
Nhật Bản (RIAJ)[277] Bạch kim 250.000^
México (AMPROFON)[498] 3× Bạch kim+Vàng 210.000^
Hà Lan (NVPI)[499] Vàng 25.000^
New Zealand (RMNZ)[290] 9× Bạch kim 135.000double-dagger
Na Uy (IFPI)[291] 3× Bạch kim 60.000*
Ba Lan (ZPAV)[500] 2× Bạch kim 40.000double-dagger
Bồ Đào Nha (AFP)[501] Vàng 7.500^
Singapore (RIAS)[278] 3× Bạch kim 30.000*
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[502] Vàng 20.000double-dagger
Thụy Điển (GLF)[503] Vàng 20.000double-dagger
Thụy Sĩ (IFPI)[504] Bạch kim 20.000double-dagger
Anh Quốc (BPI)[273] 6× Bạch kim 1.800.000double-dagger
Hoa Kỳ (RIAA)[266] 9× Bạch kim 6.472.000[chú thích 11]

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.
double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+phát trực tuyến.

Lịch sử phát hành

Ngày phát hành và định dạng của 1989
Khu vực Ngày Phiên bản Định dạng Hãng đĩa Tham khảo
Nhiều 27 tháng 10 năm 2014
  • Tiêu chuẩn
  • Deluxe
Tải kỹ thuật số Big Machine [130]
Canada Tiêu chuẩn
  • CD
  • tải kỹ thuật số
[506][507]
Hoa Kỳ Big Machine [148][508]
Canada Deluxe CD [149]
Hoa Kỳ
Đức
  • Tiêu chuẩn
  • Deluxe
Universal [150]
Anh Quốc Virgin EMI [151]
Úc 28 tháng 10 năm 2014 Tiêu chuẩn CD Universal [509]
Nhật Bản 29 tháng 10 năm 2014 Deluxe CD+DVD [510]
Canada 9 tháng 12 năm 2014 Tiêu chuẩn Vinyl [511]
Hoa Kỳ Big Machine [512]
Hoa Kỳ 15 tháng 12 năm 2014
Tải kỹ thuật số [513]
Trung Quốc đại lục 30 tháng 12 năm 2014 Deluxe CD Universal [514]
Canada 3 tháng 3 năm 2015
  • Deluxe
  • Karaoke
Tải kỹ thuật số Big Machine [515]
Hoa Kỳ 14 tháng 4 năm 2015
  • Tiêu chuẩn
  • Karaoke
CD+G/DVD [516]
Canada 14 tháng 5 năm 2015
  • Deluxe
  • Karaoke
CD+G [517]
Nhiều 8 tháng 6 năm 2017
  • Tiêu chuẩn
  • Deluxe
Phát trực tuyến[chú thích 12] [518]

Xem thêm

Chú thích

Ghi chú

  1. ^ Nguồn từ Paul Zollo của Viện hàn lâm Thu âm,[25] Forrest Wickman của Slate,[29] Mikael Wood của Los Angeles Times,[67] và Alexis Petridis của The Guardian.[82]
  2. ^ Nguồn từ Mikael Wood của Los Angeles Times[67] Corey Baesley của PopMatters,[79] Esther Lee/Ian Drew của Us Weekly,[83] và Rob Sheffield của Rolling Stone.[84]
  3. ^ Kỷ lục đã bị 25 (2015) của Adele phá vỡ.[259][260]
  4. ^ Sau Teenage Dream (2010) của Katy Perry.[316]
  5. ^ Sau Janet Jackson; album đầu tiên có năm đĩa đơn top 10 tại Hoa Kỳ là Fearless (2008).[317]
  6. ^ Nguồn từ Ian Gormely của The Guardian,[338] Jay Willis của GQ,[340] và Sasha Geffen của Vulture.[341]
  7. ^ Do Official Charts Company tính đến tháng 3 năm 2019[487]
  8. ^ Do Billboard tính album giai đoạn 1963–2015[488][489]
  9. ^ Do Billboard tính album giai đoạn 1963–2017[490][491]
  10. ^ Doanh số Canada của 1989 tính đến tháng 1 năm 2020[484]
  11. ^ Doanh số Hoa Kỳ của 1989 tính đến tháng 1 năm 2024[505]
  12. ^ 1989 được đưa trở lại lên nền tảng phát trực tuyến miễn phí vào ngày 8 tháng 6 năm 2017, trước kia thì chỉ nghe được khi đăng ký tính phí.

Tham khảo

  1. ^ a b c McNutt 2020, tr. 77.
  2. ^ Caulfield, Keith (ngày 30 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift's Red Sells 1.21 Million; Biggest Sales Week for an Album Since 2002” [Album Red của Taylor Swift bán được 1,21 triệu bản; Tuần bán album lớn nhất kể từ năm 2002]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  3. ^ Pinsker, Joe (ngày 13 tháng 8 năm 2012). “Taylor Swift to Release New 'Red' Album in October” [Taylor Swift sẽ phát hành album 'Red' mới vào tháng 10]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  4. ^ McNutt 2020, tr. 77–78.
  5. ^ Doyle, Patrick (ngày 15 tháng 7 năm 2013). “Taylor Swift: 'Floodgates Open' for Next Album” [Taylor Swift: 'mở cửa lũ' cho album tiếp theo]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  6. ^ Perone 2017, tr. 2.
  7. ^ Vinson, Christina (ngày 8 tháng 9 năm 2014). “Taylor Swift on Turning Away from Country Music on '1989' [Taylor Swift từ bỏ nhạc đồng quê trong '1989']. Taste of Country (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  8. ^ a b c McNutt 2020, tr. 78.
  9. ^ Jo Sales, Nancy; Diehl, Jessica (ngày 15 tháng 3 năm 2013). “Taylor Swift's Telltale Heart” [Trái tim kể chuyện của Taylor Swift]. Vanity Fair (bằng tiếng Anh) (tháng 4 năm 2013). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  10. ^ a b Hindo, Madison; High, Largo (ngày 12 tháng 2 năm 2015). “Taylor Swift Has Reinvented Her Public Image with 1989 [Taylor Swift đã đổi mới hình tượng công chúng của cô ấy trong album 1989]. Tampa Bay Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  11. ^ Chang, Bee-Shyuan (ngày 15 tháng 3 năm 2013). “Taylor Swift Gets Some Mud on Her Boots” [Taylor Swift có một số vết nhơ trong sự nghiệp của cô ấy]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  12. ^ a b c d e Eells, Josh (ngày 8 tháng 9 năm 2014). “Cover Story: The Reinvention of Taylor Swift” [Câu chuyện trang bìa: Sự đổi mới của Taylor Swift]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  13. ^ a b Yuan, Jada (ngày 13 tháng 2 năm 2015). “On the Road with Best Friends Taylor Swift and Karlie Kloss” [Trên đường cùng đôi bạn thân Taylor Swift và Karlie Kloss]. Vogue (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  14. ^ a b c d Block, Melissa (ngày 31 tháng 10 năm 2014). 'Anything That Connects': A Conversation With Taylor Swift” ['Bất cứ điều gì kết nối': Cuộc trò chuyện với Taylor Swift] (Đoạn âm thanh và phụ đề). NPR (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  15. ^ a b Mansfield, Brian (ngày 6 tháng 6 năm 2013). “Taylor Swift's ready to write again” [Taylor Swift đã sẵn sàng để sáng tác thêm một lần nữa]. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  16. ^ a b c d Talbott, Chris (ngày 13 tháng 10 năm 2013). “Taylor Swift Talks Next Album, CMAs and Ed Sheeran” [Taylor Swift nói về album tiếp theo, CMA và Ed Sheeran] (bằng tiếng Anh). Associated Press. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  17. ^ a b Lipshutz, Jason; Caulfield, Keith (ngày 25 tháng 11 năm 2013). “Taylor Swift Talks Next Album at AMAs: 'We Got A Lot Already' [Taylor Swift nói về album tiếp theo tại AMAs: 'Chúng tôi đã có rất nhiều bài hát sẵn sàng rồi']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  18. ^ Graff, Gary (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift on Haters” [Taylor Swift nói về những người ghét bỏ]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  19. ^ Raab, Scott (ngày 20 tháng 10 năm 2014). “Why Taylor Swift Welcomed You to New York” [Tại sao Taylor Swift chào đón bạn đến New York]. Esquire (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  20. ^ a b Klosterman, Chuck (ngày 15 tháng 10 năm 2015). “Taylor Swift on 'Bad Blood', Kanye West, and How People Interpret Her Lyrics” [Taylor Swift nói về bài hát 'Bad Blood', Kanye West và cách mọi người diễn giải lời bài hát của cô ấy]. GQ (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  21. ^ a b c d Light, Alan (ngày 5 tháng 12 năm 2014). Billboard Woman of the Year Taylor Swift on Writing Her Own Rules, Not Becoming a Cliche and the Hurdle of Going Pop” [Người phụ nữ của năm trên Billboard, Taylor Swift, bàn về việc viết ra những quy tắc của riêng mình, không trở thành khuôn sáo và trở ngại của việc theo đuổi nhạc Pop]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  22. ^ Lee, Christina (ngày 11 tháng 6 năm 2014). “Max Martin Produced 'Most Of' Taylor Swift's Next Album” [Max Martin sản xuất phần lớn album tiếp theo của Taylor Swift] (bằng tiếng Anh). Idolator. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  23. ^ Sisario, Ben (ngày 22 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's 1989 Carries High Hopes” [1989 của Taylor Swift mang đến mong đợi cao]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  24. ^ a b c Eells, Josh (ngày 16 tháng 9 năm 2014). “Taylor Swift Reveals Five Things to Expect on 1989 [Taylor Swift tiết lộ 5 điều đáng mong đợi ở 1989]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  25. ^ a b c d e f g h i j Zollo, Paul (ngày 13 tháng 2 năm 2016). “The Oral History of Taylor Swift's 1989 [Lịch sử truyền miệng album 1989 của Taylor Swift] (bằng tiếng Anh). Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Thu âm Quốc gia. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024 – qua Cuepoint.
  26. ^ a b c d e f g Taylor Swift (ngày 27 tháng 10 năm 2014). Digital Booklet – 1989 [Tập sách nhỏ kỹ thuật số – 1989]. 1989 (Deluxe Edition) (bằng tiếng Anh). Big Machine Records. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024 – qua iTunes Store.
  27. ^ Smith, Grady (ngày 20 tháng 10 năm 2013). “Taylor Swift Goes 80s Bubblegum on New Single 'Sweeter than Fiction' [Taylor Swift đi theo phong cách Bubblegum của thập niên 80 trong đĩa đơn mới 'Sweeter than Fiction']. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  28. ^ Doyle, Tom (tháng 1 năm 2018). “Jack Antonoff” [Jack Antonoff]. Sound on Sound (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  29. ^ a b c d e f g h i Wickman, Forrest (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's '1989': A Track-by-Track Breakdown” ['1989' của Taylor Swift: Phân tích theo từng ca khúc]. Slate (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  30. ^ Hosken, Patrick (ngày 12 tháng 10 năm 2015). “Taylor Swift Made 'Shake It Off' Partly So We Could All Dance To It At Weddings” [Taylor Swift đã thực hiện 'Shake It Off' một phần là để tất cả chúng ta có thể nhảy nhót trong đám cưới] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  31. ^ a b c Mansfield, Brian (ngày 14 tháng 10 năm 2014). “How Taylor Swift created 'Out of the Woods' [Taylor Swift đã tạo ra 'Out of the Woods' như thế nào]. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  32. ^ a b Perricone, Kathleen (ngày 20 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Gives Details on Recording 'I Know Places' With Ryan Tedder” [Taylor Swift kể chi tiết về việc thu âm 'I Know Places' cùng Ryan Tedder] (bằng tiếng Anh). American Top 40. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  33. ^ McNutt 2020, tr. 81–82.
  34. ^ a b c d e f g Lansky, Sam (ngày 23 tháng 10 năm 2014). “Review: 1989 Marks a Paradigm Swift” [Đánh giá: 1989 đánh dấu một hình mẫu Swift]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  35. ^ a b c Caramanica, Jon (ngày 26 tháng 10 năm 2014). “A Farewell to Twang” [Chia tay giọng Twang]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  36. ^ Garibaldi, Christina (ngày 30 tháng 5 năm 2014). “Taylor Swift FINALLY Reveals Details About Her Next Album” [Taylor Swift CUỐI CÙNG tiết lộ thông tin chi tiết về album tiếp theo của cô ấy] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  37. ^ a b Wood, Mikael (ngày 18 tháng 8 năm 2014). “Listen: Taylor Swift releases 'Shake It Off,' from new album '1989' [Nghe: Taylor Swift phát hành 'Shake It Off', từ album mới '1989']. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  38. ^ Feeney, Nolan (ngày 18 tháng 8 năm 2014). “Watch Taylor Swift Show Off Her Dance Moves in New 'Shake It Off' Video” [Xem Taylor Swift thể hiện những bước nhảy của cô ấy trong video 'Shake It Off' mới]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  39. ^ a b c Zoladz, Lindsay (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's 1989 Is Her Most Conservative Album Yet” [Album 1989 của Taylor Swift là album bảo thủ nhất của cô ấy]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  40. ^ Big Machine Records (ngày 18 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift Announced New Album 1989” [Taylor Swift công bố album mới 1989] (Thông cáo báo chí) (bằng tiếng Anh). Universal Music Canada. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  41. ^ a b McNutt 2020, tr. 73–74.
  42. ^ Tuấn Vĩ (ngày 19 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift phát hành album nhạc pop đầu tiên”. Thể thao & Văn hóa. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  43. ^ a b c Mansfield, Brian (ngày 18 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift debuts 'Shake It Off,' reveals '1989' album” [Taylor Swift ra mắt 'Shake It Off', tiết lộ album '1989']. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  44. ^ a b c d Aswad, Jem (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Album Review: Taylor Swift's Pop Curveball Pays Off With 1989 [Đánh giá album: Đường cong nhạc pop của Taylor Swift được đền đáp xứng đáng với 1989]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  45. ^ Pettifer, Amy (ngày 27 tháng 11 năm 2014). “Reviews: Taylor Swift, 1989 [Đánh giá: Taylor Swift, 1989]. The Quietus (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  46. ^ Mathieson, Craig (ngày 31 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's New Album 1989 Defies Expectations” [Album mới 1989 của Taylor Swift thách thức mọi kỳ vọng]. The Sydney Morning Herald (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  47. ^ a b c d e Eakin, Marah (ngày 28 tháng 10 năm 2014). “With 1989, Taylor Swift finally grows up” [Với album 1989, Taylor Swift cuối cùng cũng trưởng thành]. The A.V. Club (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2024.
  48. ^ Bealsey, Corey (ngày 31 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift: 1989” [Taylor Swift: 1989]. PopMatters (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  49. ^ a b c d e f Horton, Matthew (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift – 1989 [Taylor Swift – 1989]. NME (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  50. ^ Kreps, Daniel (ngày 14 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Unveils Synth-Heavy 'Out of the Woods' [Taylor Swift trình làng ca khúc 'Out of the Woods' đậm chất synth]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  51. ^ Lipshutz, Jason (ngày 18 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift's Shake It Off: Single Review” [Shake It Off của Taylor Swift: Đánh giá đĩa đơn]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  52. ^ Frank, Alex (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “The Simple Pleasures of Taylor Swift's New Album, 1989 [Niềm vui giản dị trong album mới của Taylor Swift, 1989]. Vogue (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  53. ^ Sheffield, Rob (ngày 22 tháng 12 năm 2014). “Rob Sheffield's Top 25 Songs of 2014” [25 bài hát hay nhất năm 2014 theo Rob Sheffield]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  54. ^ McNutt 2020, tr. 80.
  55. ^ Empire, Kitty (ngày 26 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift: 1989 Review – A Bold, Gossipy Confection” [Taylor Swift: Đánh giá 1989 – Một nhạc phẩm ngọt tai táo bạo và đầy chuyện]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  56. ^ Leedham, Robert (ngày 30 tháng 10 năm 2014). “Album Review: Taylor Swift – 1989 [Đánh giá album: Taylor Swift – 1989]. Drowned in Sound (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  57. ^ a b Graff, Gary (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift to the Haters: 'If You're Upset That I'm Just Being Myself, I'm Going to Be Myself More' [Taylor Swift nói với những người ghét mình: 'Nếu mấy người buồn vì tôi chỉ là chính mình thì tôi sẽ là chính mình nhiều hơn']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  58. ^ He, Richard (ngày 9 tháng 11 năm 2017). “Why Taylor Swift's 1989 Is Her Best Album” [Vì sao 1989 của Taylor Swift là album hay nhất của cô ấy]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  59. ^ Donella, Leah (ngày 26 tháng 9 năm 2018). “Taylor Swift Is The 21st Century's Most Disorienting Pop Star” [Taylor Swift là ngôi sao nhạc pop mất phương hướng nhất thế kỷ 21] (bằng tiếng Anh). NPR. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  60. ^ Shuker 2016, tr. 84; Sloan 2021, tr. 16.
  61. ^ a b c Jagoda, Vrinda (ngày 19 tháng 8 năm 2019). “Taylor Swift: 1989 Album Review” [Taylor Swift: Đánh giá album 1989]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  62. ^ a b Mansfield, Brian (ngày 23 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Reaches Fans with 'Their Story' [Taylor Swift tiếp cận người hâm mộ bằng 'câu chuyện của họ']. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  63. ^ Peng, Chelsea (ngày 20 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's New Album Isn't Going To Be About Romance” [Album mới của Taylor Swift sẽ không đề cập đến chuyện tình cảm]. Marie Claire (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  64. ^ a b Smith, Grady (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift: The Hidden Meaning in 1989's Album Notes – And an Aphex Twin Mashup” [Taylor Swift: Ý nghĩa ẩn giấu trong ghi chú album 1989 – Và bản mashup Aphex Twin]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  65. ^ “Taylor Swift on What Inspired Her Song, 'Welcome to New York' [Taylor Swift kể về điều gì đã truyền cảm hứng cho bài hát mới của cô ấy, 'Welcome to New York'] (bằng tiếng Anh). Good Morning America. ngày 20 tháng 10 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  66. ^ Wickman, Forrest (ngày 20 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's Pro-Gay "Welcome to New York" Takes Her Further Than Ever From Nashville” [Ca khúc ủng hộ người đồng tính của Taylor Swift "Welcome to New York" đã đưa cô ấy đi xa hơn bao giờ hết từ Nashville]. Slate (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  67. ^ a b c d e Wood, Mikael (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Smooths Out the Wrinkles on Sleek 1989 [Taylor Swift tươm tất khoe kiểu dáng đẹp 1989]. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  68. ^ Petridis, Alexis (ngày 26 tháng 4 năm 2019). “Taylor Swift's Singles – Ranked” [Đĩa đơn của Taylor Swift – Xếp hạng]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  69. ^ Sargent, Jordan (ngày 15 tháng 12 năm 2014). “The 100 Best Tracks of 2014: Taylor Swift, "Style" [100 ca khúc hay nhất năm 2014: Taylor Swift, "Style"]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  70. ^ a b c d Unterberger, Andrew (ngày 28 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Gets Clean, Hits Reset on New Album '1989' [Taylor Swift trở nên gột rửa, làm mới các bản hit trong album mới '1989']. Spin (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  71. ^ Mylrea, Hannah (ngày 8 tháng 9 năm 2020). “Every Taylor Swift Song Ranked In Order of Greatness” [Mọi bài hát của Taylor Swift đều được xếp hạng theo mức độ hay]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  72. ^ a b Iasimone, Ashley (ngày 11 tháng 10 năm 2015). “Taylor Swift Shares the Stories Behind 'Out of the Woods' & 'I Know Places' [Taylor Swift chia sẻ câu chuyện đằng sau 'Out of the Woods' và 'I Know Places']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  73. ^ Inocencio, Marc (ngày 14 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Unveils New Song 'Out of the Woods' off 1989 Album: Listen” [Taylor Swift hé lộ ca khúc mới 'Out of the Woods' từ album 1989: Hãy cùng nghe] (bằng tiếng Anh). iHeartMedia. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  74. ^ Willman, Chris (ngày 28 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift and 89 Fans Party Like It's '1989' on New York Rooftop” [Taylor Swift và 89 người hâm mộ tiệc tùng như đây là năm '1989' trên sân thượng New York] (bằng tiếng Anh). Yahoo! Music. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  75. ^ Kreps, Daniel (ngày 19 tháng 10 năm 2015). “See Ryan Adams, Taylor Swift Discuss 1989, Songwriting” [Hãy xem Ryan Adams, Taylor Swift thảo luận về 1989, sáng tác ca khúc]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  76. ^ Feeney, Nolan (ngày 18 tháng 8 năm 2014). “Watch Taylor Swift Show Off Her Dance Moves in New 'Shake It Off' Video” [Xem Taylor Swift thể hiện những bước nhảy của cô ấy trong video 'Shake It Off' mới]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  77. ^ Lipshutz, Jason (ngày 18 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift's 'Shake It Off' Single Review: The Country Superstar Goes Full Pop” [Đánh giá đĩa đơn 'Shake It Off' của Taylor Swift: Siêu sao nhạc đồng quê thể hiện phong cách nhạc pop hoàn toàn]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  78. ^ Geffen, Sasha (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift – 1989 | Album Reviews” [Taylor Swift – 1989 | Đánh giá album]. Consequence of Sound (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  79. ^ a b Baesley, Corey (ngày 30 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift: 1989 [Taylor Swift: 1989]. PopMatters (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  80. ^ a b c Galvin, Annie (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Review: Taylor Swift, 1989 [Đánh giá: Taylor Swift, 1989]. Slant Magazine (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2024.
  81. ^ Lang, Cady (ngày 17 tháng 7 năm 2019). “A Comprehensive Guide to the Taylor Swift-Katy Perry Feud From 2009 to the 'You Need to Calm Down' Happy Meal Reunion” [Hướng dẫn toàn diện về mối thù Taylor Swift-Katy Perry từ năm 2009 đến Happy Meal đoàn tụ ở 'You Need to Calm Down']. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  82. ^ a b Petridis, Alexis (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift: 1989 Review – Leagues Ahead of the Teen-Pop Competition” [Taylor Swift: Đánh giá 1989 – Những bước tiến trước cuộc thi teen-pop]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  83. ^ Lee, Esther; Drew, Ian (ngày 14 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Explains Why She Gave Up on Men: "It Broke My Heart!" [Taylor Swift giải thích lý do từ bỏ đàn ông: "Tim tôi đã tan nát!"]. Us Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  84. ^ a b c Sheffield, Rob (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “1989: 'When it comes to Taylor Swift and supercatchy Eighties pop gloss, too much is never enough' [1989: 'Khi nói đến Taylor Swift và nhạc pop bóng bẩy siêu hấp dẫn của thập niên tám mươi, quá nhiều là không bao giờ là đủ']. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2024.
  85. ^ a b c McCormick, Neil (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift, 1989, review: 'full of American fizz' [Taylor Swift, 1989, đánh giá: 'đầy hương vị nước Mỹ']. The Telegraph (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2024.
  86. ^ Sheffield, Rob (ngày 26 tháng 10 năm 2021). “All 199 of Taylor Swift's Songs, Ranked by Rob Sheffield” [Tất cả 199 bài hát của Taylor Swift, được xếp hạng theo Rob Sheffield]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  87. ^ Greenwald, David (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's 1989 Loses More than Country” [1989 của Taylor Swift đánh mất nhiều hơn đồng quê]. The Oregonian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  88. ^ Gevinson, Tavi (ngày 7 tháng 5 năm 2015). “Taylor Swift Has No Regrets” [Taylor Swift không có hối tiếc gì cả]. Elle (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  89. ^ Sheffield, Rob (ngày 21 tháng 9 năm 2017). “All 129 of Taylor Swift Songs Ranked: New Romantics” [Tất cả 129 bài hát của Taylor Swift được xếp hạng: New Romantics]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  90. ^ Iasimone, Ashley (ngày 20 tháng 2 năm 2016). “Taylor Swift's 'New Romantics' Set as Next '1989' Single” ['New Romantics' của Taylor Swift sẽ là đĩa đơn '1989' tiếp theo]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  91. ^ Wilson, Carl (ngày 29 tháng 10 năm 2014). “Contemplating Taylor Swift's Navel” [Chiêm ngưỡng rốn của Taylor Swift]. Slate (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  92. ^ a b Bonanos, Christopher (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “A Close Examination of Taylor Swift's 1989 Cover” [Soi kỹ ảnh bìa 1989 của Taylor Swift]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  93. ^ a b c Williamson, Jason (ngày 15 tháng 12 năm 2014). “Beyond 1989: Taylor Swift and Polaroids” [Ngoài 1989: Taylor Swift và các Polaroid]. The Line of Best Fit (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  94. ^ a b Dickey, Jack (ngày 13 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift on 1989, Spotify, Her Next Tour and Female Role Models” [Taylor Swift trò chuyện về 1989, Spotify, chuyến lưu diễn tiếp theo của cô ấy và hình mẫu phụ nữ]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  95. ^ a b Rothman, Michael (ngày 19 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift Explains Meaning Behind Cover of New Album 1989 [Taylor Swift giải thích ý nghĩa đằng sau bìa album mới 1989] (bằng tiếng Anh). ABC News. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  96. ^ Siroky, Mary biên tập (ngày 26 tháng 10 năm 2022). “Taylor Swift Albums Ranked From Worst To Best” [Album của Taylor Swift được xếp hạng từ tệ nhất đến hay nhất]. Consequence (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  97. ^ Leonard, Devin (ngày 12 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift and Big Machine Are The Music Industry” [Taylor Swift và Big Machine là ngành công nghiệp âm nhạc]. Bloomberg Businessweek (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  98. ^ a b Garibaldi, Christina (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Here Are the Secret Messages Hidden in 1989 [Đây là những thông điệp bí mật được ẩn giấu trong 1989] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  99. ^ “Taylor Swift Album Cover Boosts Vintage Polaroid Sales” [Bìa album của Taylor Swift thúc đẩy doanh số bán máy ảnh Polaroid cổ điển]. The New Zealand Herald (bằng tiếng Anh). ngày 9 tháng 8 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  100. ^ “The 50 Greatest Album Covers of All Time” [50 bìa album xuất sắc nhất mọi thời đại]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 16 tháng 3 năm 2022. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  101. ^ O'Keeffe, Kevin (ngày 19 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift Announces New Album 1989, Premieres New Music Video 'Shake It Off' [Taylor Swift công bố album mới 1989, ra mắt MV mới 'Shake It Off'] (bằng tiếng Anh). Yahoo!. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  102. ^ Việt Lâm (ngày 29 tháng 10 năm 2014). 'Công chúa nhạc country' trổ tài với nhạc pop”. Thể thao & Văn hóa. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  103. ^ Trust, Gary (ngày 27 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift's 'Shake It Off' Debuts At No. 1 On Hot 100” ['Shake It Off' của Taylor Swift ra mắt ở vị trí số 1 trên Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  104. ^ Lipshutz, Jason (ngày 30 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Next '1989' Single Is...” [Đĩa đơn tiếp theo của Taylor Swift '1989' là...]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  105. ^ Trust, Gary (ngày 31 tháng 12 năm 2014). “Taylor Swift Helps Tie Record Streak for Women Atop Hot 100” [Taylor Swift giúp phe nghệ sĩ nữ lập kỷ lục đứng đầu trên Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  106. ^ Trust, Gary (ngày 19 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift makes Hot 100 History” [Taylor Swift làm nên lịch sử Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  107. ^ “Taylor Swift 'Style': Officially Impacts HAC 2/9” ['Style' của Taylor Swift: Cuối cùng cũng góp mặt lên HAC vào 9/2] (bằng tiếng Anh). Republic Records. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  108. ^ Caulfield, Keith (ngày 11 tháng 3 năm 2015). “Mark Ronson & Bruno Mars Notch 10th Week Atop Hot 100” [Mark Ronson & Bruno Mars đứng đầu Hot 100 tuần thứ 10]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  109. ^ “Listen to Taylor Swift's 'Bad Blood' ft. Kendrick Lamar: World Premiere” [Nghe 'Bad Blood' của Taylor Swift ft. Kendrick Lamar: Buổi ra mắt thế giới] (bằng tiếng Anh). iHeartRadio. ngày 17 tháng 5 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  110. ^ a b Trust, Gary (ngày 28 tháng 5 năm 2015). “Taylor Swift's 'Bad Blood' Blasts to No. 1 on Hot 100” ['Bad Blood' của Taylor Swift nhảy lên số 1 Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  111. ^ Trust, Gary (ngày 24 tháng 11 năm 2015). “Taylor Swift Tallies First Dance/Mix Show Airplay No. 1 With 'Wildest Dreams' [Taylor Swift lần đầu tiên giành vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phát sóng Dance/Mix Show với 'Wildest Dreams']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  112. ^ a b Lipshutz, Jason (ngày 13 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Previews 'Out Of The Woods,' New Track Out Tuesday: Listen” [Taylor Swift xem trước 'Out Of The Woods', ca khúc mới ra mắt vào thứ ba: Hãy lắng nghe]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  113. ^ Strecker, Erin (ngày 22 tháng 12 năm 2015). “Taylor Swift's Video for 'Out of the Woods' Will Premiere on New Year's Rockin' Eve [Video 'Out of the Woods' của Taylor Swift sẽ ra mắt trên New Year's Rockin' Eve]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  114. ^ Hunt, Elle (ngày 1 tháng 1 năm 2016). “Taylor Swift releases Out of the Woods music video on New Year's Eve” [Taylor Swift phát hành MV Out of the Woods vào đêm giao thừa]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  115. ^ Trust, Gary (ngày 22 tháng 10 năm 2014). “Meghan Trainor Rules Hot 100, Ed Sheeran Hits Top 10, Glen Campbell Returns” [Meghan Trainor thống trị Hot 100, Ed Sheeran lọt top 10, Glen Campbell trở lại]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  116. ^ Iasimone, Ashley (ngày 20 tháng 2 năm 2016). “Taylor Swift's 'New Romantics' Set as Next 1989 Single” ['New Romantics' của Taylor Swift sẽ là đĩa đơn 1989 tiếp theo]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  117. ^ “Taylor Swift Chart History (Hot 100)” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift (Hot 100)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  118. ^ “Taylor Swift Chart History (Adult Pop Songs)” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift (Adult Pop Songs)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  119. ^ “Taylor Swift Chart History (Pop Songs)” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift (Pop Songs)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  120. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Hoa Kỳ – Taylor Swift” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  121. ^ a b c Christman, Ed; Caulfield, Keith; Gruger, William (ngày 7 tháng 11 năm 2014). “The Roadmap to Taylor Swift's Record-Breaking Week in 6 (Not So Easy) Steps” [Lộ trình phá kỷ lục trong tuần của Taylor Swift qua 6 bước (không hề dễ dàng)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  122. ^ a b Wilkinson 2017, tr. 441.
  123. ^ Wilkinson 2017, tr. 442.
  124. ^ Lewis, Randy (ngày 28 tháng 10 năm 2014). “How does Taylor Swift connect with fans? 'Secret sessions' and media blitzes” [Taylor Swift kết nối với người hâm mộ bằng cách nào? 'Secret sessions' và sự bùng nổ của truyền thông]. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  125. ^ Sisario, Ben (ngày 5 tháng 11 năm 2014). “Sales of Taylor Swift's 1989 Intensify Streaming Debate” [Doanh số bán album 1989 của Taylor Swift làm tăng thêm cuộc tranh luận về streaming]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  126. ^ Hampp, Andrew (ngày 26 tháng 9 năm 2014). “Exclusive: Taylor Swift Teams With Subway, Diet Coke For #MeetTaylor Promotion” [Độc quyền: Taylor Swift hợp tác với Subway, Diet Coke để thực hiện chiến dịch quảng bá #MeetTaylor]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  127. ^ Strecker, Erin (ngày 4 tháng 8 năm 2013). “Taylor Swift Teases New Album” [Taylor Swift hé lộ album mới]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  128. ^ Hyndman, Jessica (ngày 6 tháng 8 năm 2014). “What's Taylor Swift's Big Surprise? Here Are the Craziest Theories” [Điều bất ngờ lớn nhất của Taylor Swift là gì? Dưới đây là những giả thuyết điên rồ nhất] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  129. ^ Strecker, Erin (ngày 7 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift Drops Two More Clues About New Music” [Taylor Swift tiết lộ thêm hai manh mối về âm nhạc mới]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  130. ^ a b Whitney, Alyse (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Where Should You Preorder Taylor Swift's '1989'?” [Bạn nên đặt mua '1989' của Taylor Swift ở đâu?]. Bustle (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  131. ^ Stutz, Colin (ngày 10 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Admits to Stalking Fans Online for '1989' Secret Listening Sessions” [Taylor Swift thừa nhận theo dõi người hâm mộ trực tuyến trong các buổi nghe bí mật '1989']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  132. ^ Stutz, Colin (ngày 16 tháng 10 năm 2014). “Watch Taylor Swift's 1989 Secret Sessions Behind The Scenes Video” [Xem video hậu trường Secret Sessions 1989 của Taylor Swift]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  133. ^ Vena, Jocelyn (ngày 11 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Calls London's #1989SecretSessions 'Outrageous and Hilarious' [Taylor Swift gọi #1989SecretSessions ở Luân Đôn là 'quá khích và vui nhộn']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  134. ^ “Taylor Swift Instagrams '1989' Lyrics” [Lời bài hát '1989' trên Instagram của Taylor Swift]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 24 tháng 10 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  135. ^ “Taylor Swift Reveals First Song on 1989: 'Welcome to New York' [Taylor Swift hé lộ ca khúc đầu tiên trong 1989: 'Welcome to New York'] (bằng tiếng Anh). ABC News. ngày 20 tháng 10 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  136. ^ Feeney, Nolan (ngày 20 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's 'Welcome to New York' Is the Musical Equivalent of a Peppermint Latte” ['Welcome to New York' của Taylor Swift có âm nhạc tương đương với một ly Peppermint Latte]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  137. ^ Lynch, Joe (ngày 17 tháng 10 năm 2014). “Alleged Track List for Taylor Swift's '1989' Hits Twitter” [Danh sách bài hát được cho là của album '1989' của Taylor Swift gây sốt trên Twitter]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  138. ^ Walker, John (ngày 22 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Reveals Her 1989 Track List: Panic Accordingly” [Taylor Swift tiết lộ danh sách ca khúc năm 1989 của mình: Hoảng loạn theo đó] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  139. ^ Feeney, Nolan (ngày 22 tháng 10 năm 2014). “A Totally Serious Analysis of Taylor Swift's Genre-Defying 8 Seconds of Static, 'Track 3' [Một phân tích hoàn toàn nghiêm túc về âm thanh tĩnh dài 8 giây bất chấp thể loại của Taylor Swift, 'Track 3']. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  140. ^ France, Lisa Respers (ngày 22 tháng 10 năm 2014). “Even Taylor Swift's silence is golden” [Ngay cả sự im lặng của Taylor Swift cũng là vàng] (bằng tiếng Anh). CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  141. ^ O'Neil, Lorena (ngày 22 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Tops Canadian iTunes Chart With Eight Seconds of White Noise” [Taylor Swift đứng đầu bảng xếp hạng iTunes Canada với tiếng ồn trắng dài 8 giây]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  142. ^ O'Neil, Lorena (ngày 21 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift accidentally releases 8 seconds of white noise, tops Canadian iTunes chart” [Taylor Swift vô tình phát hành tiếng nhiễu trắng dài 8 giây, đứng đầu bảng xếp hạng iTunes Canada] (bằng tiếng Anh). Canadian Broadcasting Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  143. ^ Aswad, Jem (ngày 31 tháng 10 năm 2014). “The Elaborate High-Security Tactics Behind Taylor Swift's Album Release” [Chiến thuật bảo mật phức tạp đằng sau việc phát hành album của Taylor Swift]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  144. ^ a b c Mandell, Andrea (ngày 25 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's new album, '1989,' leaked” [Album mới của Taylor Swift, '1989', bị rò rỉ]. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  145. ^ Weber, Lindsey (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Blame Canada for Leaking Taylor Swift's New Album” [Đổ lỗi cho Canada vì rò rỉ album mới của Taylor Swift]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  146. ^ a b c Caulfield, Keith (ngày 28 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' Heading for 1 Million Sales Debut” ['1989' của Taylor Swift hướng tới doanh số 1 triệu bản khi ra mắt]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  147. ^ Stutz, Colin (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Live Broadcasts Manhattan Rooftop 'Secret Session' [Taylor Swift phát sóng trực tiếp 'Secret Session' trên sân thượng Manhattan]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  148. ^ a b 1989 – Album – United States” [1989 – Album – Hoa Kỳ] (bằng tiếng Anh). iTunes Store. Apple, Inc. ngày 27 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  149. ^ a b “Taylor Swift – 1989 (Deluxe Edition) – Target Exclusive” [Taylor Swift – 1989 (Phiên bản Deluxe) – Độc quyền tại Target] (bằng tiếng Anh). Target Corporation. ngày 27 tháng 10 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  150. ^ a b Cụm nguồn phát hành 1989 ở Đức:
  151. ^ a b Cụm nguồn phát hành 1989 ở Anh Quốc:
  152. ^ Stutz, Colin (ngày 28 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's Entire '1989' Album Selling for 99 Cents” [Toàn bộ album '1989' của Taylor Swift được bán với giá 99 xu]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  153. ^ Lipshutz, Jason (ngày 17 tháng 2 năm 2015). “Taylor Swift Releasing 1989 Bonus Songs to iTunes” [Taylor Swift phát hành những bài hát bổ sung từ 1989 lên iTunes]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  154. ^ a b “Top 100 Albums of the 2010s” [100 album hàng đầu của thập niên 2010]. Consequence of Sound (bằng tiếng Anh). ngày 4 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  155. ^ Melas, Chloe (ngày 16 tháng 11 năm 2020). “Taylor Swift speaks out about sale of her masters” [Taylor Swift lên tiếng về việc bán album master của cô ấy] (bằng tiếng Anh). CTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  156. ^ “Taylor Swift wants to re-record her old hits after ownership row” [Taylor Swift muốn thu âm lại những bản hit cũ sau cuộc tranh chấp quyền sở hữu] (bằng tiếng Anh). BBC News. ngày 22 tháng 8 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  157. ^ Dương Trần (ngày 8 tháng 7 năm 2014). “Taylor Swift: Âm nhạc không nên là hàng miễn phí”. Thể thao & Văn hóa. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  158. ^ Richmond, Ben (ngày 4 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Versus Spotify: How the Music Industry Is Still Fighting Streaming” [Taylor Swift vs Spotify: Ngành công nghiệp âm nhạc vẫn đang đấu tranh với việc phát trực tuyến như thế nào]. Vice (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  159. ^ Peters, Mitchell (ngày 7 tháng 7 năm 2014). “Taylor Swift Shares Optimistic View of the Music Industry In Wall Street Journal Op-Ed” [Taylor Swift chia sẻ quan điểm lạc quan về ngành công nghiệp âm nhạc trên Op-Ed Wall Street Journal]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  160. ^ a b Flanagan, Andrew (ngày 3 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Catalog Removed From Spotify” [Danh mục của Taylor Swift bị xóa khỏi Spotify]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  161. ^ Bảo Toàn (ngày 4 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift gây sốc khi thu hồi tất cả các album”. Một thế giới. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  162. ^ a b Peters, Mitchell (ngày 8 tháng 11 năm 2014). “Big Machine's Scott Borchetta Explains Why Taylor Swift Was Removed From Spotify” [Scott Borchetta của Big Machine giải thích lý do Taylor Swift bị xóa khỏi Spotify]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  163. ^ a b Hern, Alex (ngày 28 tháng 10 năm 2014). “Why is Taylor Swift's 1989 not on Spotify? Because she doesn't want it there” [Tại sao 1989 của Taylor Swift không có trên Spotify? Bởi vì cô ấy không muốn album ấy ở đó]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  164. ^ Ngọc Nguyễn (ngày 5 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift khiến hãng nhạc trực tuyến hàng đầu 'mất mặt' trước IPO”. Thời báo Tài chính Việt Nam. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  165. ^ Engel, Pamela (ngày 3 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Pulls All Of Her Albums From Spotify” [Taylor Swift rút tất cả album của cô ấy khỏi Spotify]. Business Insider (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  166. ^ Knopper, Steve (ngày 8 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Pulled Music From Spotify for 'Superfan Who Wants to Invest,' Says Rep” [Đại diện Taylor Swift đã rút nhạc khỏi Spotify vì 'Siêu fan muốn đầu tư', Rep nói thế]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  167. ^ Stutz, Colin (ngày 18 tháng 6 năm 2015). “Taylor Swift's '1989' Won't Be on Apple Music When It Launches” ['1989' của Taylor Swift sẽ không xuất hiện trên Apple Music khi ra mắt]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  168. ^ a b Peters, Mitchell (ngày 21 tháng 6 năm 2015). “Taylor Swift Pens Open Letter Explaining Why 1989 Won't Be on Apple Music” [Taylor Swift viết thư ngỏ giải thích lý do 1989 không xuất hiện trên Apple Music]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  169. ^ Bajarin, Tim (ngày 30 tháng 6 năm 2015). “How Taylor Swift Saved Apple Music” [Taylor Swift đã cứu Apple Music như thế nào]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  170. ^ Andriakos, Jacqueline (ngày 22 tháng 6 năm 2015). “Apple Responds to Taylor Swift's Open Letter, Says It Will Pay Artists During Apple Music Free Trial Period: 'We Hear You' [Apple trả lời thư ngỏ của Taylor Swift, cho biết họ sẽ trả tiền cho các nghệ sĩ trong thời gian dùng thử miễn phí Apple Music: 'Chúng tôi nghe bạn']. People (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  171. ^ Halperin, Shirley (ngày 21 tháng 6 năm 2015). “Apple Changes Course After Taylor Swift Open Letter: Will Pay Labels During Free Trial” [Apple thay đổi hướng đi sau thư ngỏ của Taylor Swift: Sẽ trả tiền cho hãng trong thời gian dùng thử miễn phí]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  172. ^ Bakare, Lanre (ngày 25 tháng 6 năm 2015). “Taylor Swift allows Apple to stream her album 1989” [Taylor Swift cho phép Apple phát trực tuyến album 1989 của cô]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  173. ^ Rosen, Christopher (ngày 25 tháng 6 năm 2015). “Taylor Swift is putting 1989 on Apple Music” [Taylor Swift đưa 1989 lên Apple Music]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  174. ^ a b c Wilkinson 2017, tr. 443.
  175. ^ “Taylor Swift Returns to Spotify on the Day Katy Perry's Album Comes Out” [Taylor Swift trở lại Spotify vào ngày album của Katy Perry ra mắt] (bằng tiếng Anh). BBC News. ngày 9 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  176. ^ Brandle, Lars (ngày 9 tháng 6 năm 2017). “Taylor Swift's Entire Catalog Is Now on Spotify & Other Streaming Services: Go Listen” [Toàn bộ danh mục của Taylor Swift hiện có trên Spotify và các dịch vụ phát trực tuyến khác: Hãy nghe thôi]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2017.
  177. ^ Comer, M. Tye (ngày 24 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift Dazzles During 'Shake It Off' Performance at MTV VMAs” [Taylor Swift rạng ngời trong màn trình diễn 'Shake It Off' tại MTV VMAs]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  178. ^ Payne, Chris (ngày 23 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Wins Dick Clark Award at AMAs, Hits Back at Spotify” [Taylor Swift thắng giải Dick Clark tại AMAs, đáp trả Spotify]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  179. ^ “iHeartRadio festival kicks off in Las Vegas” [Lễ hội iHeartRadio khai mạc ở Las Vegas]. The Arizona Republic (bằng tiếng Anh). ngày 20 tháng 9 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  180. ^ Edwards, Gavin (ngày 25 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift, Ariana Grande and Gwen Stefani Cover the Hollywood Bowl in Glitter” [Taylor Swift, Ariana Grande và Gwen Stefani tỏa sáng lấp lánh khắp Hollywood Bowl]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  181. ^ Harvey, Lydia (ngày 3 tháng 12 năm 2014). “Taylor Swift prances around in lingerie during Victoria's Secret Fashion Show” [Taylor Swift uyển chuyển với trang phục nội y trong Victoria's Secret Fashion Show]. Tampa Bay Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  182. ^ Stutz, Colin (ngày 6 tháng 12 năm 2014). “Taylor Swift Beats Laryngitis, Sam Smith, Ariana Grande Shine at KIIS FM Jingle Ball” [Taylor Swift đánh bại Laryngitis, Sam Smith, Ariana Grande Shine tại KIIS FM Jingle Ball]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  183. ^ Kreps, Daniel (ngày 4 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Reveals Massive 1989 World Tour” [Taylor Swift tiết lộ chuyến lưu diễn 1989 World Tour hoành tráng]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  184. ^ Strecker, Erin (ngày 3 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Announces '1989' World Tour Dates” [Taylor Swift công bố ngày lưu diễn '1989' World Tour]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  185. ^ Hosken, Patrick (ngày 12 tháng 12 năm 2015). “Taylor Swift's 1989 World Tour Might Be Over, But The Experience Lives On” [Chuyến lưu diễn 1989 World Tour của Taylor Swift có thể kết thúc nhưng kỷ niệm vẫn tồn tại] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  186. ^ a b Iasimone, Ashley (ngày 12 tháng 12 năm 2015). “Taylor Swift Says Farewell to 1989 Tour's 'Incredible Adventure' [Taylor Swift nói lời chia tay với 'cuộc phiêu lưu đáng kinh ngạc' của 1989 Tour]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  187. ^ D'Zurilla, Christie (ngày 5 tháng 5 năm 2015). “Taylor Swift takes Tokyo by storm, kicking off 1989 World Tour” [Taylor Swift tấn công Tokyo, khởi động 1989 World Tour]. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  188. ^ Schwartz, Rob (ngày 5 tháng 5 năm 2015). “Taylor Swift Kicks Off 1989 Tour in Tokyo, Talks About Her Life-Changing Year” [Taylor Swift khởi động chuyến lưu diễn 1989 Tour tại Tokyo, nói về năm thay đổi cuộc đời cô ấy]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  189. ^ Derschowitz, Jessica (ngày 12 tháng 12 năm 2015). “Taylor Swift Says Goodbye to 1989 World Tour in Australia” [Taylor Swift nói lời tạm biệt với chuyến lưu diễn 1989 World Tour tại Úc]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  190. ^ “Taylor Swift's '1989' Tour Guest Stars: Where the Singer's 78 BFFs Rank on a High-School Clique Scale” [Các ngôi sao khách mời trong chuyến lưu diễn '1989' của Taylor Swift: 78 bạn thân của ca sĩ được xếp hạng trên thang điểm cấp trung học]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 11 tháng 12 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  191. ^ McIntyre, Hugh (ngày 9 tháng 12 năm 2015). “Meet Taylor Swift's 1989 World Tour Opening Acts” [Gặp gỡ nghệ sĩ mở màn chuyến lưu diễn 1989 World Tour của Taylor Swift]. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  192. ^ a b c d Levine, Nick (ngày 21 tháng 8 năm 2019). “Taylor Swift's Lover: The Struggle to Maintain Superstardom” [Lover của Taylor Swift: Cuộc đấu tranh để duy trì danh hiệu siêu sao] (bằng tiếng Anh). BBC News. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  193. ^ Waddell, Ray (ngày 11 tháng 12 năm 2015). “Live Music's $20 Billion Year: The Grateful Dead's Fare Thee Well Reunion, Taylor Swift, One Direction Top Boxscore's Year-End” [Năm trị giá 20 tỷ đô la Mỹ của Live Music: Cuộc tái hợp Fare Thee Well của The Grateful Dead, Taylor Swift, One Direction, top doanh thu phòng vé cuối năm]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  194. ^ “2015 Year-End top 20 Worldwide Tours” [Top 20 chuyến lưu diễn trên thế giới cuối năm 2015] (PDF). Pollstar (bằng tiếng Anh). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  195. ^ Willens, Max (ngày 8 tháng 1 năm 2016). “Taylor Swift Did Something In 2015 That No Female Musician Has Ever Done Before” [Taylor Swift đã làm được điều gì đó trong năm 2015 mà chưa có nữ nhạc sĩ nào làm được trước đó]. International Business Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  196. ^ Frankenberg, Eric (ngày 21 tháng 8 năm 2018). “Taylor Swift Breaks Her Own Record for Highest-Grossing U.S. Tour by a Woman” [Taylor Swift phá kỷ lục của chính mình về chuyến lưu diễn có doanh thu cao nhất ở Mỹ của một nghệ sĩ nữ]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  197. ^ Frankenberg, Eric (ngày 30 tháng 11 năm 2018). “Taylor Swift's Reputation Stadium Tour Breaks Record for Highest-Grossing U.S. Tour” [Reputation Stadium Tour của Taylor Swift phá vỡ kỷ lục về chuyến lưu diễn có doanh thu cao nhất ở Mỹ]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  198. ^ Sheffield, Rob (ngày 11 tháng 7 năm 2015). “Taylor Swift's Epic '1989' Tour: Every Night With Us Is Like a Dream” [Chuyến lưu diễn hoành tráng '1989' của Taylor Swift: Mỗi đêm bên chúng tôi giống như một giấc mơ]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  199. ^ Pollock, David (ngày 23 tháng 6 năm 2015). “Taylor Swift, Hydro Glasgow, gig review: Two-hour hyperactive spectacle is a triumph for both the artist and her fans” [Taylor Swift, Hydro Glasgow, đánh giá buổi biểu diễn: Cảnh tượng sôi động kéo dài hai giờ là một chiến thắng cho cả nghệ sĩ và người hâm mộ của cô ấy]. The Independent (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  200. ^ Virtue, Graeme (ngày 25 tháng 6 năm 2015). “Taylor Swift review – intimacy on a grand scale from pop's latest superpower” [Đánh giá Taylor Swift – sự thân thiết trên quy mô lớn từ siêu cường mới nhất của nhạc pop]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  201. ^ Peters, Mitchell (ngày 13 tháng 12 năm 2015). “Taylor Swift '1989 World Tour Live' Concert Film Coming to Apple Music: Watch Trailer” [Phim hòa nhạc '1989 World Tour Live' của Taylor Swift sắp ra mắt Apple Music: Xem đoạn giới thiệu]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  202. ^ Iasimone, Ashle (ngày 20 tháng 12 năm 2015). “Taylor Swift's 1989 Tour Film Is Here: Watch 'Wildest Dreams' and a Behind-the-Scenes Video” [Phim lưu diễn 1989 Tour của Taylor Swift có ở đây: Xem 'Wildest Dreams' và video hậu trường]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  203. ^ a b 1989 by Taylor Swift Reviews” [Các đánh giá dành cho 1989 của Taylor Swift] (bằng tiếng Anh). AnyDecentMusic?. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2024.
  204. ^ a b 1989 by Taylor Swift Reviews and Tracks” [Các đánh giá và danh sách bài hát của 1989 của Taylor Swift] (bằng tiếng Anh). Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2024.
  205. ^ a b Erlewine, Stephen Thomas. 1989 – Taylor Swift” [1989 – Taylor Swift] (bằng tiếng Anh). AllMusic. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2024.
  206. ^ a b Christgau, Robert (ngày 6 tháng 2 năm 2015). “Robert Christgau: Expert Witness” [Robert Christgau: Expert Witness] (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2024 – qua Cuepoint.
  207. ^ a b Markovitz, Adam (ngày 11 tháng 11 năm 2014). “1989” [1989]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2024.
  208. ^ a b Petridis, Alexis (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift: 1989 review – leagues ahead of the teen-pop competition” [Taylor Swift: Đánh giá 1989 – dẫn đầu cuộc cạnh tranh nhạc pop tuổi teen]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2024.
  209. ^ Weber, Lindsey (ngày 28 tháng 10 năm 2014). “What Is Everyone Saying About Taylor Swift's 1989?” [Mọi người nói gì về 1989 của Taylor Swift?]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2024.
  210. ^ Gill, Andy (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift, 1989 - album review: Pop star shows 'promising signs of maturity' [Taylor Swift, 1989 - đánh giá album: Ngôi sao nhạc pop cho thấy 'dấu hiệu trưởng thành đầy hứa hẹn']. The Independent (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2024.
  211. ^ Manning, Craig (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift - 1989 - Album Review” [Taylor Swift - 1989 - Đánh giá Album]. AbsolutePunk (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2024.
  212. ^ Kimberlin, Shane (ngày 3 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift – 1989 | Album Review” [Taylor Swift – 1989 | Đánh giá album]. musicOMH (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2024.
  213. ^ McNutt 2020, tr. 79; Sloan 2021, tr. 17.
  214. ^ a b Winter, Velvet (ngày 13 tháng 11 năm 2022). “Like the Beatles, Madonna and Kylie Minogue Before Her, Taylor Swift Is Masterful at Pivoting” [Giống như Beatles, Madonna và Kylie Minogue trước cô ấy, Taylor Swift là bậc thầy trong việc xoay vòng] (bằng tiếng Anh). ABC News. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2024.
  215. ^ Farber, Jim (ngày 23 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's '1989': Album Review” ['1989' của Taylor Swift: Đánh giá album]. New York Daily News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2024.
  216. ^ Dibdin, Emma (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift 1989 album review: "Lighter, catchier and more calculated" [Đánh giá album Taylor Swift 1989: "Nhẹ nhàng hơn, bắt tai hơn và tính toán hơn"] (bằng tiếng Anh). Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2024.
  217. ^ “AMAs Winners List 2015” [Danh sách người chiến thắng AMAs 2015]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 22 tháng 11 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  218. ^ 第29回 日本ゴールドディスク大賞 [Lễ trao giải thưởng Đĩa vàng Nhật Bản lần thứ 29] (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  219. ^ “iHeartRadio Music Awards 2016: See the Full Winners List” [Giải thưởng Âm nhạc iHeartRadio 2016: Xem danh sách đầy đủ người chiến thắng]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 3 tháng 4 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  220. ^ “Die Helene-Fischer-Festspiele haben begonnen” [Lễ Helene Fischer đã bắt đầu] (bằng tiếng Đức). Rundfunk Berlin-Brandenburg. ngày 27 tháng 3 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  221. ^ Bliss, Karen (ngày 27 tháng 1 năm 2015). “Magic!, Kiesza and Leonard Cohen Lead Juno Awards Nominations” [Magic!, Kiesza và Leonard Cohen dẫn đầu đề cử giải thưởng Juno]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  222. ^ “Premios 40 Principales 2015” [Giải thưởng Premios 40 Principales năm 2015] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Los 40. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  223. ^ “Grammy Awards Winners: The Full List” [Người đoạt giải Grammy: Danh sách đầy đủ]. The Guardian (bằng tiếng Anh). ngày 15 tháng 2 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  224. ^ Lynch, Joe (ngày 19 tháng 2 năm 2016). “Taylor Swift Joins Elite Club to Win Grammy Album of the Year More Than Once: See the Rest” [Taylor Swift gia nhập cùng Elite Club nhiều lần giành giải Grammy cho Album của năm: Xem phần còn lại]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  225. ^ “The 10 Best Albums of 2014” [10 album xuất sắc nhất năm 2014]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 11 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  226. ^ “American Songwriter's Top 50 Albums of 2014: Presented by D'Addario” [50 album hàng đầu theo American Songwriter năm 2014: Do D'Addario trình bày]. American Songwriter (bằng tiếng Anh). ngày 24 tháng 11 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  227. ^ “Top 10 Best Albums of 2014” [Top 10 album xuất sắc nhất năm 2014]. Time (bằng tiếng Anh). ngày 2 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  228. ^ Mccormick, Neil; Brown, Helen; Hall, James; Mcnulty, Bernadette (ngày 2 tháng 4 năm 2015). “Best 50 albums of 2014” [50 album xuất sắc nhất năm 2014]. The Daily Telegraph (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  229. ^ “The Best Albums Of 2014: The Music's Writers' Poll” [Album hay nhất năm 2014: Cuộc bình chọn của các tác giả âm nhạc]. The Music (bằng tiếng Anh). ngày 16 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  230. ^ Adams, Sean (ngày 16 tháng 12 năm 2014). “Drowned In Sound's Favourite Albums of 2014” [Album được yêu thích nhất năm 2014 của Drowned In Sound]. Drowned in Sound (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  231. ^ “The 50 Best Albums of 2014” [50 album xuất sắc nhất năm 2014]. Complex (bằng tiếng Anh). ngày 18 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  232. ^ “50 Best Albums of 2014” [50 album xuất sắc nhất năm 2014]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  233. ^ “The best albums of 2014” [Album xuất sắc nhất năm]. The Guardian (bằng tiếng Anh). ngày 26 tháng 11 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  234. ^ Zaleski, Annie; Rytlewski, Evan; Partridge, kenneth; và đồng nghiệp (ngày 8 tháng 12 năm 2014). “The 20 best albums of 2014” [20 album xuất sắc nhất năm 2014]. The A.V. Club (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  235. ^ “The Best Albums of 2014” [Album xuất sắc nhất năm 2014]. PopMatters (bằng tiếng Anh). ngày 22 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  236. ^ “The 50 Best Albums of 2014” [50 album xuất sắc nhất năm 2014]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). ngày 17 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  237. ^ Hubbard, Michael (ngày 6 tháng 12 năm 2014). “Top 100 Albums Of 2014” [Top 100 album của năm 2014]. MusicOMH (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  238. ^ “The Village Voice's 42nd Pazz & Jop Music Critics Poll” [Cuộc thăm dò ý kiến phê bình âm nhạc Pazz & Jop lần thứ 42 của The Village Voice]. The Village Voice (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  239. ^ Caramanica, Jon (ngày 11 tháng 12 năm 2014). “Jon Caramanica's Top 10 Albums of 2014” [Top 10 album của năm 2014 theo Jon Caramanica]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  240. ^ Tucker, Ken (ngày 16 tháng 12 năm 2014). “Ken Tucker's Top 9 Albums Of 2014, Plus A Book” [9 album hàng đầu năm 2014 của Ken Tucker, cộng thêm một cuốn sách] (bằng tiếng Anh). NPR. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  241. ^ Mansfield, Brian (ngày 18 tháng 12 năm 2014). “Brian Mansfield's Top 5 Albums of 2014” [Top 5 album của năm 2014 theo Brian Mansfield]. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  242. ^ a b c Caulfield, Keith (ngày 4 tháng 11 năm 2014). “Official: Taylor Swift's '1989' Debuts With 1.287 Million Sold In First Week” [Chính thức: '1989' của Taylor Swift ra mắt với 1,287 triệu bản được bán ra trong tuần đầu tiên]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  243. ^ Caulfield, Keith (ngày 4 tháng 11 năm 2014). '1989' Debuts at No. 1! See Taylor Swift's Career Timeline” ['1989' ra mắt ở vị trí số 1! Xem dòng thời gian sự nghiệp của Taylor Swift]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  244. ^ Lewis, Randy (ngày 4 tháng 11 năm 2014). “First week for Taylor Swift's '1989' album? 1.287 million in sales” [Tuần đầu tiên cho album '1989' của Taylor Swift? Doanh số 1,287 triệu]. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  245. ^ France, Lisa Respers (ngày 6 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' has biggest sales week since 2002” ['1989' của Taylor Swift có tuần bán chạy nhất kể từ năm 2002] (bằng tiếng Anh). CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  246. ^ Caulfield, Keith (ngày 12 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' Spends Second Week at No. 1 on Billboard 200 Chart” ['1989' của Taylor Swift dành tuần thứ hai ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Billboard 200]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  247. ^ Caulfield, Keith (ngày 19 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' No. 1 for Third Week on Billboard 200” [Album '1989' của Taylor Swift đứng đầu tuần thứ ba trên bảng xếp hạng Billboard 200]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  248. ^ Grein, Paul (ngày 20 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift at No. 1 for Third Week; Ties Eminem's Record” [Taylor Swift ở vị trí số 1 trong tuần thứ ba; hòa với kỷ lục của Eminem] (bằng tiếng Anh). Yahoo! Music. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  249. ^ Caulfield, Keith (ngày 3 tháng 12 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' Returns to No. 1 on Revamped Billboard 200” ['1989' của Taylor Swift trở lại vị trí số 1 trên Billboard 200 cải tiến]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  250. ^ Caulfield, Keith (ngày 31 tháng 12 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' Spends Seventh Week at No. 1 on Billboard 200” ['1989' của Taylor Swift dành tuần thứ bảy ở vị trí số 1 trên Billboard 200]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  251. ^ Caulfield, Keith (ngày 31 tháng 12 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' Beats 'Frozen' As Top Selling Album of 2014” ['1989' của Taylor Swift đánh bại 'Frozen' để trở thành Album bán chạy nhất năm 2014]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  252. ^ a b Caulfield, Keith (ngày 7 tháng 1 năm 2015). “Taylor Swift's '1989' Earns Eighth Week at No. 1 on Billboard 200 Chart” ['1989' của Taylor Swift giành vị trí số 1 tuần thứ 8 trên bảng xếp hạng Billboard 200]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  253. ^ Grein, Paul (ngày 17 tháng 1 năm 2015). “Taylor Swift's '1989': 4M Sales in Just 12 Weeks” ['1989' của Taylor Swift: Doanh số 4 triệu bản chỉ sau 12 tuần] (bằng tiếng Anh). Yahoo! Music. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  254. ^ Grein, Paul (ngày 22 tháng 1 năm 2015). “Meghan Trainor's Debut Album Arrives at #1” [Album đầu tay của Meghan Trainor hạ cánh ở vị trí số 1] (bằng tiếng Anh). Yahoo! Music. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  255. ^ Caulfield, Kevin (ngày 24 tháng 1 năm 2015). “Taylor Swift's '1989' Hits 4 Million in U.S. Sales” ['1989' của Taylor Swift đạt doanh số 4 triệu bản tại Mỹ]. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  256. ^ Caulfield, Keith (ngày 11 tháng 2 năm 2015). “Taylor Swift's '1989' Spends 11th Week at No. 1 on Billboard 200 Chart” ['1989' của Taylor Swift dành tuần thứ 11 ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Billboard 200]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  257. ^ Caulfield, Keith (ngày 15 tháng 4 năm 2015). 'Furious 7' Soundtrack Speeds to No. 1 on Billboard 200 Chart” [Nhạc phim 'Furious 7' tăng tốc lên vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Billboard 200]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  258. ^ Caulfield, Keith (ngày 13 tháng 3 năm 2015). “Taylor Swift's '1989' Has Outsold Her Last Two Albums” ['1989' của Taylor Swift đã bán chạy hơn hai album liền trước của cô]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  259. ^ Caulfield, Keith (ngày 8 tháng 7 năm 2015). “Taylor Swift's 1989 Hits 5 Million in U.S. Sales, Making It the Fastest-Selling Album In Over 10 Years” [1989 của Taylor Swift đạt doanh số 5 triệu bản tại Mỹ, trở thành album bán chạy nhất trong hơn 10 năm]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  260. ^ Berenson, Tessa (ngày 11 tháng 12 năm 2015). “Adele's 25 Sells 5 Million Copies in the U.S.” [Album 25 của Adele bán được 5 triệu bản ở Mỹ]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  261. ^ Caulfield, Keith (ngày 27 tháng 10 năm 2015). “Taylor Swift's '1989' Only Fifth Album to Spend First Year in Billboard 200's Top 10” ['1989' của Taylor Swift trở thành album thứ 5 trụ top 10 Billboard 200 trong một năm đầu tiên]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  262. ^ Caulfield, Keith (ngày 8 tháng 11 năm 2015). “Chris Stapleton Soars to No. 1 on Billboard 200 Albums Chart After CMAs” [Chris Stapleton tăng vọt lên vị trí số 1 trên bảng xếp hạng album Billboard 200 sau CMA]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  263. ^ McIntyre, Hugh (ngày 17 tháng 7 năm 2024). “Taylor Swift Joins Adele And Lana Del Rey In A Historic Feat” [Taylor Swift cùng Adele và Lana Del Rey lập kỳ tích trong lịch sử]. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2024.
  264. ^ a b "Taylor Swift Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  265. ^ “2019 Nielsen Year-End Report” [Báo cáo cuối năm 2019 của Nielsen] (PDF). Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  266. ^ a b “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Taylor Swift – 1989” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  267. ^ Lipshutz, Jason (ngày 10 tháng 8 năm 2023). “Taylor Swift's 1989: 9 Key Numbers Ahead of Taylor's Version [1989 của Taylor Swift: 9 con số quan trọng trước Taylor's Version]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  268. ^ a b Cross, Alan (ngày 5 tháng 11 năm 2014). “Weekly Music Sales and Analysis: 05 November 2014” [Doanh thu và phân tích âm nhạc hàng tuần: ngày 5 tháng 11 năm 2014] (bằng tiếng Anh). A Journal of Musical Things. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  269. ^ Cross, Alan (ngày 12 tháng 11 năm 2014). “Weekly Music Sales and Analysis: 12 November 2014” [Doanh thu và phân tích âm nhạc hàng tuần: ngày 12 tháng 11 năm 2014] (bằng tiếng Anh). A Journal of Musical Things. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  270. ^ Bliss, Karen (ngày 27 tháng 1 năm 2015). “Nielsen: Canada Loved Taylor Swift, Streaming Music and, Yep, Vinyl in 2014” [Nielsen: Canada yêu thích Taylor Swift, dịch vụ phát nhạc trực tuyến và vâng, Vinyl vào năm 2014]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  271. ^ Moss, Liv (ngày 2 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift scores fastest selling female album of the year so far” [Taylor Swift đạt danh hiệu album nữ bán chạy nhất năm tính đến thời điểm hiện tại] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  272. ^ Copsey, Rob (ngày 14 tháng 4 năm 2016). “Taylor Swift's New Romantics music video gets full release” [Video âm nhạc New Romantics của Taylor Swift được phát hành đầy đủ] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  273. ^ a b “Chứng nhận album Anh Quốc – Taylor Swift – 1989” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  274. ^ “Chartifacts - Tuesday 4th November 2014” [Chartifacts - Thứ ba ngày 4 tháng 11 năm 2014] (bằng tiếng Anh). ARIA Charts. ngày 4 tháng 11 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  275. ^ “Taylor Swift album 1989 is Australia's fastest-selling album of 2014” [Album 1989 của Taylor Swift là album bán chạy nhất năm 2014 tại Úc] (bằng tiếng Anh). News.com.au. ngày 3 tháng 11 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  276. ^ Eliezer, Christie (ngày 6 tháng 11 năm 2014). “Report: Taylor Swift's 1989 Sales Buzz In US, Australia” [Báo cáo: Doanh số 1989 của Taylor Swift gây tiếng vang ở Mỹ, Úc] (bằng tiếng Anh). The Music Network. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  277. ^ a b “Chứng nhận album Nhật Bản – Taylor Swift – 1989” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024. Chọn 2015年03月 ở menu thả xuống
  278. ^ a b “Chứng nhận album Singapore” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Singapore. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  279. ^ Oakes, Tara (ngày 30 tháng 8 năm 2019). Jones, Gareth (biên tập). “Taylor Swift's Lover album breaks new record in China” [Album Lover của Taylor Swift phá kỷ lục mới tại Trung Quốc] (bằng tiếng Anh). Reuters. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  280. ^ “IFPI publishes Digital Music Report 2015” [IFPI công bố Báo cáo nhạc số 2015] (bằng tiếng Anh). Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế. ngày 14 tháng 4 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  281. ^ “Global Music Report 2016” [Báo cáo âm nhạc toàn cầu 2016] (PDF) (bằng tiếng Anh). Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế. ngày 12 tháng 4 năm 2016. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  282. ^ a b "Ultratop.be – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  283. ^ a b “Top 100 Artist Album, Week Ending 6 November 2014” [Album 100 nghệ sĩ hàng đầu, kết thúc tuần ngày 6 tháng 11 năm 2014] (bằng tiếng Anh). GfK Chart-Track. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  284. ^ a b c "Dutchcharts.nl – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  285. ^ a b "Charts.nz – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  286. ^ a b "Norwegiancharts.com – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  287. ^ a b “2023 Accreds” [Chứng nhận năm 2023] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  288. ^ a b “Chứng nhận album Áo – Taylor Swift – 1989” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  289. ^ a b “Ultratop − Goud en Platina – albums 2022” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  290. ^ a b “Chứng nhận album New Zealand – Taylor Swift – 1989” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  291. ^ a b “Chứng nhận album Na Uy – Taylor Swift – 1989” (bằng tiếng Na Uy). IFPI Na Uy. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  292. ^ Lipshutz, Jason; Unterberger, Andrew (ngày 22 tháng 3 năm 2023). “Taylor Swift Catalog Rises in Streams Following Eras Tour Kickoff” [Danh mục của Taylor Swift tăng stream sau Eras Tour Kickoff]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  293. ^ a b “Official IFPI Charts Top-75 Albums Sales Chart” [Bảng xếp hạng IFPI chính thức: Bảng xếp hạng top 75 doanh số bán album] (bằng tiếng Hy Lạp). IFPI Greece. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  294. ^ a b c "Austriancharts.at – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  295. ^ a b c "Swedishcharts.com – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  296. ^ a b “Los discos más vendidos de la semana” [Album bán chạy nhất trong tuần]. Diario de Cultura (bằng tiếng Tây Ban Nha). Argentine Chamber of Phonograms and Videograms Producers. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  297. ^ a b “Rankings (Febrero 2023)” [Bảng xếp hạng (tháng 2 năm 2023)] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Cámara Uruguaya del Disco. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  298. ^ a b “Tónlistinn – Plötur – Vika 44 – 2023” [Âm nhạc – Album – Tuần 44 – 2023] (bằng tiếng Iceland). Plötutíðindi. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  299. ^ a b Sisario, Ben (ngày 22 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' Carries High Hopes but No Country Music” ['1989' của Taylor Swift mang nhiều hy vọng nhưng không có nhạc đồng quê]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  300. ^ a b c d Christman, Ed; Caulfield, Keith; Gruger, William (ngày 7 tháng 11 năm 2014). “The Roadmap to Taylor Swift's Record-Breaking Week in 6 (Not So Easy) Steps” [Lộ trình đến tuần phá kỷ lục của Taylor Swift qua 6 bước (không dễ dàng)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  301. ^ a b Mansfield, Brian (ngày 4 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' sells 1.287 million in first week” ['1989' của Taylor Swift bán được 1,287 triệu bản trong tuần đầu tiên]. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  302. ^ Knopper, Steve (ngày 21 tháng 10 năm 2014). “Can Taylor Swift's '1989' Save Ailing Music Industry?” ['1989' của Taylor Swift có thể cứu ngành công nghiệp âm nhạc ốm yếu không?]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  303. ^ Caulfield, Keith (ngày 23 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' Sales Forecast Grows” [Dự báo doanh thu '1989' của Taylor Swift tăng trưởng]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  304. ^ Caulfield, Keith (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' Aiming For 900,000-Plus Sales Debut” ['1989' của Taylor Swift đặt mục tiêu bán được hơn 900.000 bản khi ra mắt]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  305. ^ a b Caulfield, Keith (ngày 29 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' Surging Toward 1.2 Million Debut” ['1989' của Taylor Swift tiến tới 1,2 triệu bản tiêu thụ sau khi ra mắt]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  306. ^ Caulfield, Keith (ngày 2 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' Set for Biggest Sales Week Since 2002: 1.3 Million-Plus” [Album '1989' của Taylor Swift sẽ có doanh thu tuần cao nhất kể từ năm 2002: Hơn 1,3 triệu bản]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  307. ^ T.Vũ (ngày 3 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift lập kỷ lục bán đĩa”. Người Lao động. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  308. ^ Christman, Ed (ngày 31 tháng 10 năm 2014). “Where Are People Buying Taylor Swift's '1989'? A Retail Breakdown of (Probably) the Year's Biggest Album” [Mọi người mua '1989' của Taylor Swift ở đâu? Bảng phân tích bán lẻ của album (có lẽ) lớn nhất trong năm]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  309. ^ Lynch, Joe (ngày 14 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift's America: See '1989' Album Sales By Region” [Nước Mỹ của Taylor Swift: Xem doanh số bán album '1989' theo khu vực]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  310. ^ Caulfield, Keith (ngày 5 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Collects Fourth No. 1 Album, 'Now 52' Debuts at No. 2” [Taylor Swift giành vị trí số 1 cho album thứ tư, 'Now 52' ra mắt ở vị trí thứ 2]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  311. ^ Greenburg, Zack O'Malley (ngày 30 tháng 10 năm 2014). “Why Taylor Swift's '1989' Could Be The Last Platinum Album Ever” [Tại sao '1989' của Taylor Swift có thể là album Bạch kim cuối cùng]. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  312. ^ Hạ Huyền (ngày 3 tháng 11 năm 2014). “Album '1989': Đĩa bạch kim cuối cùng của mọi thời?”. Thể thao & Văn hóa. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  313. ^ McNutt 2020, tr. 79.
  314. ^ Hertweck, Nate (ngày 18 tháng 1 năm 2018). “Taylor Swift, 1989: For The Record” [Taylor Swift, 1989: Dành cho thu âm] (bằng tiếng Anh). Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Thu âm Quốc gia. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  315. ^ Bruner, Raisa (ngày 26 tháng 10 năm 2023). “How 1989 Changed Taylor Swift's Career Forever” [1989 đã thay đổi sự nghiệp của Taylor Swift mãi mãi như thế nào]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  316. ^ Anderson, Trevor (ngày 30 tháng 10 năm 2015). “From Michael Jackson's Thriller to Taylor Swift's 1989: Albums with Five Top 10 Hot 100 Hits” [Từ Thriller của Michael Jackson đến 1989 của Taylor Swift: Những album có 5 bản hit lọt top 10 Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  317. ^ Anderson, Trevor (ngày 18 tháng 8 năm 2020). “Juice WRLD's Legends Never Die & The 27 Other Albums With Five or More Top 10 Hot 100 Hits” [Legends Never Die của Juice WRLD & 27 album khác có từ 5 bản hit trở lên lọt vào top 10 Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  318. ^ Unterberger, Andrew (ngày 6 tháng 7 năm 2018). “While You Weren't Looking, Taylor Swift Scored Her Biggest Reputation Radio Hit” [Trong lúc bạn không nhìn thì Taylor Swift đã ghi được bản hit radio Reputation lớn nhất của cô ấy]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  319. ^ Cullen 2016, tr. 37.
  320. ^ a b Barnes, Kelsey (ngày 27 tháng 10 năm 2023). “7 Ways Taylor Swift's 1989 Primed Her For World Domination” [7 cách 1989 của Taylor Swift giúp cô ấy thống trị thế giới] (bằng tiếng Anh). Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Thu âm Quốc gia. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  321. ^ Welby, Augustus (ngày 14 tháng 4 năm 2020). “Conan Gray: 'I always write about things that make me feel uncomfortable' [Conan Gray: 'Tôi luôn viết về những điều khiến tôi cảm thấy khó chịu']. Tone Deaf (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  322. ^ Weiner, Natalie (ngày 12 tháng 7 năm 2015). “Jared Leto Listens to Taylor Swift's 1989 For Musical Inspiration: See His Reaction” [Jared Leto nghe 1989 của Taylor Swift để lấy cảm hứng âm nhạc: Xem phản ứng của anh ấy]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  323. ^ Akingbade, Tobi (ngày 2 tháng 3 năm 2019). “The Vamps reveal they really want to work with Taylor Swift again: 'She revolutionised music' [The Vamps tiết lộ họ thực sự muốn hợp tác với Taylor Swift lần nữa: 'Cô ấy đã cách mạng hóa âm nhạc']. Metro (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  324. ^ Hughes, Hilary (ngày 25 tháng 8 năm 2019). “Taylor Swift Calls Rom-Com Inspiration Behind Lover Song the 'Most Meta Thing That's Ever Happened to Me' [Taylor Swift gọi cảm hứng rom-com đằng sau bài hát Lover là 'điều tuyệt vời nhất từng xảy ra với tôi']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  325. ^ O'Donnell, Kevin (ngày 21 tháng 9 năm 2015). “Ryan Adams 1989 Interview: Indie Icon Opens Up about Covering Taylor Swift's Smash Album” [Phỏng vấn Ryan Adams 1989: Biểu tượng Indie mở màn về việc cover album đình đám của Taylor Swift]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  326. ^ Zaleski, Annie (ngày 21 tháng 9 năm 2015). “Ryan Adams Transforms Taylor Swift's 1989 Into a Melancholy Masterpiece” [Ryan Adams biến 1989 của Taylor Swift thành kiệt tác u sầu]. The A.V. Club (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  327. ^ Winograd, Jeremy (ngày 21 tháng 10 năm 2015). “Review: Ryan Adams, 1989 [Đánh giá: Ryan Adams, 1989]. Slant Magazine (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  328. ^ Hendicott, James (ngày 19 tháng 10 năm 2015). “Taylor Swift Tells Ryan Adams 'What You Did with My Album Was like Actors Changing Emphasis' – Watch” [Taylor Swift nói với Ryan Adams 'Những gì anh đã làm với album của tôi giống như các diễn viên đang thay đổi điểm nhấn vậy'  – Xem]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  329. ^ Hoby, Hermione (ngày 23 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift: 'Sexy? Not On My Radar' [Taylor Swift: 'Quyến rũ? Không có trên radar của tôi']. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  330. ^ Snapes, Laura (ngày 24 tháng 8 năm 2019). “Taylor Swift: 'I was literally about to break' [Taylor Swift: 'Tôi thực sự sắp đau khổ']. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  331. ^ Hiatt, Brian (ngày 30 tháng 9 năm 2019). “9 Taylor Swift Moments That Didn't Fit in Our Cover Story” [9 khoảnh khắc của Taylor Swift không phù hợp với câu chuyện trang bìa của chúng tôi]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  332. ^ a b Wickman, Forrest (ngày 25 tháng 11 năm 2015). “Why Did It Take Ryan Adams to Get Pitchfork to Review a Taylor Swift Album?” [Tại sao nhờ có Ryan Adams mà Pitchfork mới đi đánh giá album của Taylor Swift?]. Slate (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  333. ^ Leszkiewicz, Anna (ngày 24 tháng 9 năm 2015). “Ryan Adams's 1989 And the Mansplaining of Taylor Swift” [1989 của Ryan Adams và vụ việc phân biệt giới tính với Taylor Swift]. New Statesman (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  334. ^ Stone 2023, tr. 60–61.
  335. ^ Stone 2023, tr. 61.
  336. ^ “Every Taylor Swift Album Ranked” [Mỗi album của Taylor Swift được xếp hạng]. Paste (bằng tiếng Anh). ngày 2 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  337. ^ Bilmes, Alex (ngày 21 tháng 10 năm 2022). “Taylor Swift's Midnights Is an Instant Classic” [Midnights của Taylor Swift là một tác phẩm kinh điển tức thì]. Esquire (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  338. ^ a b Gormely, Ian (ngày 3 tháng 12 năm 2014). “Taylor Swift Leads Poptimism's Rebirth” [Taylor Swift dẫn đầu cho màn tái sinh của chủ nghĩa nhạc pop lạc quan]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  339. ^ Ford, Lucy (ngày 20 tháng 3 năm 2023). “12 Essential Pop Albums of the 21st Century” [12 album nhạc pop thiết yếu của thế kỷ 21]. GQ (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  340. ^ Willis, Jay (ngày 25 tháng 10 năm 2019). “Taylor Swift's 1989 Perfected the Pop Crossover Album” [1989 của Taylor Swift hoàn thiện album pop crossover]. GQ (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  341. ^ Geffen, Sasha (ngày 10 tháng 11 năm 2017). “Revisiting Taylor Swift's 1989 Album” [Nhìn lại album 1989 của Taylor Swift]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  342. ^ Freeman, Rob (ngày 11 tháng 8 năm 2023). “Taylor Swift's 1989: The Return of a Pop Music Masterpiece” [1989 của Taylor Swift: Sự trở lại của một kiệt tác nhạc Pop] (bằng tiếng Anh). BBC. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  343. ^ Mylrea, Hannah (ngày 24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift: Every Single Album Ranked and Rated” [Taylor Swift: Mỗi album đều được xếp hạng và đánh giá]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  344. ^ Barnes, Kelsey (ngày 21 tháng 2 năm 2023). “Every Taylor Swift Album Ranked” [Mỗi album của Taylor Swift được xếp hạng]. Alternative Press (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  345. ^ “All 10 Taylor Swift Albums Ranked” [Xếp hạng tất cả 10 album của Taylor Swift]. Slant Magazine (bằng tiếng Anh). ngày 25 tháng 10 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  346. ^ Harbron, Lucy (ngày 12 tháng 11 năm 2021). “Why Taylor Swift's Red Is Her Turning Point” [Vì sao Red của Taylor Swift là bước ngoặt của cô ấy]. Clash (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  347. ^ Smith, Neil (ngày 22 tháng 6 năm 2015). “Five Ways Taylor Swift Is Changing the World” [Năm cách Taylor Swift đang thay đổi thế giới] (bằng tiếng Anh). BBC News. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  348. ^ “Best Albums of the Decade (2010–19)” [Album xuất sắc nhất thập kỷ (2010–19)] (bằng tiếng Anh). Metacritic. ngày 11 tháng 1 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  349. ^ “The 50 best albums of the 2010s” [50 album xuất sắc nhất thập niên 2010]. The A.V. Club (bằng tiếng Anh). ngày 20 tháng 11 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  350. ^ “The 100 Best Albums of the 2010s (page 1)” [100 album xuất sắc nhất thập niên 2010 (trang 1)]. Slant Magazine (bằng tiếng Anh). ngày 20 tháng 12 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  351. ^ “The 100 Greatest Albums of the 2010s: Staff Picks” [100 album vĩ đại thập niên 2010: Lựa chọn của nhân viên]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 19 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  352. ^ “NME's Greatest Albums of The Decade: The 2010s” [Album xuất sắc nhất thập kỷ theo NME: Những năm 2010]. NME (bằng tiếng Anh). ngày 30 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  353. ^ “The 100 Best Albums of the 2010s” [100 album xuất sắc nhất của thập niên 2010]. Paste (bằng tiếng Anh). ngày 9 tháng 10 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  354. ^ “The 100 Best Albums of the 2010s” [100 album xuất sắc nhất của thập niên 2010]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). ngày 3 tháng 12 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  355. ^ “All The Best Albums Of The 2010s, Ranked” [Tất cả các album xuất sắc nhất của thập niên 2010, được xếp hạng]. Uproxx (bằng tiếng Anh). ngày 7 tháng 10 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  356. ^ Naftule, Ashley (ngày 8 tháng 11 năm 2019). “The Top 25 Pop Albums of the 2010s” [25 album nhạc pop hàng đầu của thập niên 2010]. Consequence (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  357. ^ Willman, Chris (ngày 20 tháng 12 năm 2019). “The Best Albums of the Decade” [Album xuất sắc nhất của thập kỷ]. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  358. ^ Beaumont-Thomas, Ben; Snapes, Laura; Curtin, April (ngày 13 tháng 9 năm 2019). “The 100 best albums of the 21st century” [100 album xuất sắc nhất thế kỷ 21]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  359. ^ Potton, Ed (ngày 13 tháng 10 năm 2023). “Why Taylor Swift's 1989 Is the Album of the Century” [Vì sao 1989 của Taylor Swift là album của thế kỷ]. The Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  360. ^ “2010s Readers' Poll Results” [Kết quả bình chọn của độc giả thập niên 2010]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). ngày 16 tháng 10 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  361. ^ “The 500 Greatest Albums of All Time” [500 album vĩ đại nhất]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). ngày 31 tháng 12 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  362. ^ “The 100 Greatest Albums of All Time” [100 album xuất sắc nhất mọi thời đại]. Consequence (bằng tiếng Anh). ngày 12 tháng 9 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  363. ^ Aswad, Jem; Willman, Chris (ngày 19 tháng 11 năm 2018). “Taylor Swift Signs New Deal With Universal Music Group” [Taylor Swift ký hợp đồng mới với Universal Music Group]. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  364. ^ Melas, Chloe (ngày 16 tháng 11 năm 2020). “Taylor Swift Speaks Out About Sale of Her Masters” [Taylor Swift lên tiếng về việc bán bản thu của mình] (bằng tiếng Anh). CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  365. ^ “Taylor Swift Wants to Re-Record Her Old Hits” [Taylor Swift muốn thu âm lại những bản hit cũ của mình] (bằng tiếng Anh). BBC News. ngày 22 tháng 8 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  366. ^ Finnis, Alex (ngày 17 tháng 11 năm 2020). “Taylor Swift Masters: The Controversy around Scooter Braun Selling the Rights to Her Old Music Explained” [Bản thu tác phẩm Taylor Swift: Tranh cãi xung quanh việc Scooter Braun bán bản quyền âm nhạc cũ của cô ấy đã được giải thích]. i (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  367. ^ Shah, Neil (ngày 27 tháng 5 năm 2024). “Taylor Swift Releases New Fearless Album, Reclaiming Her Back Catalog” [Taylor Swift phát hành album mới Fearless, đòi lại danh mục âm nhạc cũ của cô]. The Wall Street Journal (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  368. ^ Aroesti, Rachel (ngày 27 tháng 10 năm 2023). “Taylor Swift: 1989 (Taylor's Version) Review – Subtle Bonus Tracks Add New Depths to a Classic” [Taylor Swift: Đánh giá 1989 (Taylor's Version) – Những bản nhạc bổ sung tinh tế đã tạo thêm chiều sâu mới cho một bản nhạc cổ điển]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  369. ^ Aniftos, Rania (ngày 20 tháng 9 năm 2023). “Taylor Swift's Full 1989 (Taylor's Version) Track List Is Here With No Features & One More 'Vault' Track” [Danh sách bài hát đầy đủ 1989 (Taylor's Version) của Taylor Swift ở đây không có hợp tác nào và thêm một bài hát 'Vault']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  370. ^ Caulfield, Keith (ngày 20 tháng 8 năm 2023). “Travis Scott's Utopia Notches Third Straight Week Atop Billboard 200” [Utopia của Travis Scott tuần thứ ba liên tiếp đứng đầu Billboard 200]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  371. ^ "Australiancharts.com – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  372. ^ "Ultratop.be – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  373. ^ “Brazil Albums: December 13, 2014” [Album Brazil: ngày 13 tháng 12 năm 2014]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  374. ^ "Taylor Swift Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  375. ^ “Top 40 Stranih – Tjedan 5. 2015” [Top 40 nước ngoài - Tuần 5, 2015.] (bằng tiếng Croatia). Hrvatska Diskografska Udruga. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  376. ^ "Czech Albums – Top 100". ČNS IFPI. Ghi chú: Trên trang biểu đồ này, chọn 201444 trên trường này ở bên cạnh từ "Zobrazit", và sau đó nhấp qua từ để truy xuất dữ liệu biểu đồ chính xác. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  377. ^ "Danishcharts.dk – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  378. ^ "Taylor Swift: 1989" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  379. ^ "Lescharts.com – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  380. ^ "Offiziellecharts.de – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment Charts. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  381. ^ “Official IFPI Charts: Top-75 Albums Sales Chart” [Bảng xếp hạng IFPI chính thức: Bảng xếp hạng top 75 doanh số bán album] (bằng tiếng Hy Lạp). IFPI Greece. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  382. ^ "Album Top 40 slágerlista – 2014. 44. hét" (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  383. ^ "Italiancharts.com – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  384. ^ 週間 CDアルバムランキング2014年11月10日付 [Bảng xếp hạng album CD hàng tuần tính đến ngày 10 tháng 11 năm 2014] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  385. ^ a b “Los Más Vendidos 2015 – Mejor posición” [Best Sellers 2015 – Thứ hạng xuất sắc nhất nhất] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas (AMPROFON). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  386. ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLiS - Official Retail Sales Chart" (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Polish Society of the Phonographic Industry. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  387. ^ "Portuguesecharts.com – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  388. ^ “Official Scottish Albums Chart Top 100” [Bảng xếp hạng Official Scottish Chart Top 100] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  389. ^ “South African Top 20 Albums Chart” [Bảng xếp hạng top 20 album Nam Phi] (bằng tiếng Anh). RSG (Recording Industry of South Africa). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  390. ^ "South Korea Gaon Album Chart". Trên trang này, chọn "2014.10.26~2014.11.01" để có được biểu đồ tương ứng. Gaon Chart Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  391. ^ "South Korea Gaon International Album Chart". Trên trang này, chọn "2014.10.26~2014.11.01", sau đó "국외", để có được biểu đồ tương ứng. Gaon Chart Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  392. ^ "Spanishcharts.com – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  393. ^ a b "Swisscharts.com – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  394. ^ "Official Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  395. ^ "Taylor Swift Chart History (Independent Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  396. ^ “Los discos más vendidos del 2014 en Argentina” [Những album bán chạy nhất năm 2014 tại Argentina] (bằng tiếng Tây Ban Nha). ARG Noticias. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.Quản lý CS1: URL hỏng (liên kết)
  397. ^ “End of Year Charts – ARIA Top 100 Albums 2014” [Bảng xếp hạng cuối năm – ARIA Top 100 Album 2014] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  398. ^ “ultratop.be – Jaaroverzichten 2014” [ultratop.be – Xếp hạng cuối năm 2014] (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  399. ^ “Rapports Annuels 2014” [Báo cáo cuối năm 2014] (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  400. ^ “2014 Year End Charts – Top Canadian Albums” [Bảng xếp hạng cuối năm 2014 - Top album tại Canada]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  401. ^ “Jaaroverzichten – Album 2014” [Xếp hạng cuối năm – Album 2014] (bằng tiếng Hà Lan). dutchcharts.nl. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  402. ^ “Le Top de l'année : Top Albums Fusionnés” [Top của năm: Album tổng hợp hàng đầu] (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  403. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts” [Top 100 Album - Xếp hạng cuối năm] (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment charts. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  404. ^ “IRMA Best of Albums 2014” [Album xuất sắc nhất IRMA năm 2014] (bằng tiếng Anh). Irish Recorded Music Association. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  405. ^ 2014年 年間音楽&映像ランキング発表 [Bảng xếp hạng âm nhạc và DVD cuối năm 2014] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  406. ^ “Los Más Vendidos 2014” [Album bán chạy nhất năm 2014] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  407. ^ “Top Selling Albums of 2014” [Top album bán chạy nhất năm 2014] (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  408. ^ “2014 Albums Chart” [Bảng xếp hạng album năm 2014] (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  409. ^ “Schweizer Jahreshitparade 2014” [Xếp hạng cuối năm 2014] (bằng tiếng Đức). Schweizer Hitparade. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  410. ^ Moss, Liv (ngày 1 tháng 1 năm 2015). “The Official Top 40 Biggest Selling Artist Albums of 2014” [Top 40 album bán nghệ sĩ bán chạy nhất của Official năm 2014] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  411. ^ “Top 200 Albums Chart Year End 2014” [Bảng xếp hạng top 200 album cuối năm 2014]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  412. ^ “ARIA Top 100 Albums 2015” [100 album hàng đầu bảng xếp hạng ARIA 2015] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  413. ^ “Ö3 Austria Top 40 – Album Charts 2015” [Ö3 Austria Top 40 – Bảng xếp hạng album năm 2015] (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  414. ^ “Jaaroverzichten 2015” [Xếp hạng cuối năm 2015] (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  415. ^ “Rapports Annuels 2015” [Báo cáo cuối năm 2015] (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  416. ^ “Top Canadian Albums: Year End 2015” [Top Canadian Albums: Cuối năm 2015]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  417. ^ “Top 50 strana 2015” [Top 50 album năm 2015] (bằng tiếng Croatia). CMC.com.hr. ngày 30 tháng 12 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  418. ^ “Jaaroverzichten – Album 2015” [Xếp hạng cuối năm – Album năm 2015] (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Charts. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  419. ^ “Top Albums annuel (physique + téléchargement + streaming)” [Top album của năm (vật lý + tải xuống + phát trực tuyến)] (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  420. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts” [Top 100 Album - Xếp hạng cuối năm] (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment charts. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  421. ^ “Összesített album- és válogatáslemez-lista — helyezés alapján – 2015” [Album tổng hợp và danh sách album tổng hợp —theo thứ hạng—2015] (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  422. ^ “IRMA Best of Albums 2015” [Album xuất sắc nhất năm 2015 của IRMA] (bằng tiếng Anh). Irish Recorded Music Association. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  423. ^ “Hot Albums 2015 Year End” [Album hot nhất cuối năm 2015]. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  424. ^ 2015年 年間音楽&映像ランキング発表 [Bảng xếp hạng âm nhạc và DVD cuối năm 2015] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  425. ^ “Top Selling Albums of 2015” [Album bán chạy nhất năm 2015] (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  426. ^ “2015 Albums Chart” [Bảng xếp hạng album năm 2015] (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  427. ^ “Top 100 Albumes 2015” [Top 100 album năm 2015] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  428. ^ “Schweizer Jahreshitparade 2015” [Xếp hạng cuối năm 2015] (bằng tiếng Đức). Schweizer Hitparade. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  429. ^ Copsey, Rob (ngày 5 tháng 1 năm 2016). “The Official Top 40 Biggest Artist Albums of 2015 revealed” [Top 40 album nghệ sĩ lớn nhất năm 2015 trên Official được tiết lộ] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  430. ^ “Top Billboard 200 Albums: Year End 2015” [Top album Billboard 200: Cuối năm 2015]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  431. ^ “ARIA Top 100 Albums 2016” [Top 100 Album ARIA năm 2016] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  432. ^ “Jaaroverzichten 2016 Albums” [Xếp hạng album cuối năm 2016] (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  433. ^ “2016 Year End Charts – Top Canadian Albums” [Bảng xếp hạng cuối năm 2016 – Album hàng đầu Canada]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  434. ^ “Hot Albums 2016” [Album hot nhất năm 2016] (bằng tiếng Nhật). Billboard Japan. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  435. ^ “Top Selling Albums of 2016” [Top album bán chạy năm 2016] (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  436. ^ “2016 Album Chart” [Bảng xếp hạng album năm 2016] (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  437. ^ “End of Year Albums Chart Top 100 – 2016” [Bảng xếp hạng album top 100 cuối năm – 2016] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  438. ^ “Top Billboard 200 Albums: Year End 2016” [Album hàng đầu Billboard 200: Cuối năm 2016]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  439. ^ “ARIA End of Year Albums 2017” [Top 100 Album ARIA năm 2017] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  440. ^ “Årslisten 2017” [Xếp hạng cuối năm 2017] (bằng tiếng Na Uy). IFPI Norge. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  441. ^ “2017 Album Chart” [Bảng xếp hạng album năm 2017] (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  442. ^ “Top Billboard 200 Albums – Year-End 2017” [Album hàng đầu Billboard 200: Cuối năm 2017]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  443. ^ “ARIA End of Year Albums 2018” [Bảng xếp hạng album ARIA cuối năm 2018] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  444. ^ “Billboard 200 Albums – Year-End 2018” [Album hàng đầu Billboard 200: Cuối năm 2018]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  445. ^ “ARIA End of Year Albums Chart 2019” [Bảng xếp hạng album ARIA cuối năm 2019] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  446. ^ “Billboard 200 Albums – Year-End 2019” [Album hàng đầu Billboard 200: Cuối năm 2019]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  447. ^ “ARIA Top 100 Albums for 2020” [Bảng xếp hạng album ARIA cuối năm 2020] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  448. ^ “Jaaroverzichten 2020” [Xếp hạng cuối năm 2020] (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  449. ^ “End of Year Album Chart Top 100 – 2020” [Bảng xếp hạng Top 100 album cuối năm – 2020] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  450. ^ “Billboard 200 Albums – Year-End 2020” [Album hàng đầu Billboard 200: Cuối năm 2020]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  451. ^ “Independent Albums – Year-End 2020” [Album Independent – Cuối năm 2020]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  452. ^ “ARIA Top 100 Albums for 2021” [Bảng xếp hạng 100 album ARIA cuối năm 2021] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  453. ^ “Jaaroverzichten 2021” [Xếp hạng cuối năm 2021] (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  454. ^ Griffiths, George (ngày 9 tháng 1 năm 2022). “Ireland's official biggest albums of 2021” [Album xuất sắc nhất bảng xếp hạng Official Ireland cuối năm 2021] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  455. ^ “End of Year Album Chart Top 100 – 2021” [Bảng xếp hạng Top 100 album cuối năm – 2021] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  456. ^ “Billboard 200 Albums – Year-End 2021” [Album hàng đầu Billboard 200: Cuối năm 2021]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  457. ^ “Independent Albums – Year-End 2021” [Album Independent – Cuối năm 2021]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  458. ^ “ARIA Top 100 Albums Chart for 2022” [Bảng xếp hạng top 100 album ARIA cuối năm 2022] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  459. ^ “Ö3 Austria Top 40 Jahrescharts 2022” [Ö3 Austria Top 40 Xếp hạng cuối năm 2022] (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. ngày 8 tháng 11 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  460. ^ “Jaaroverzichten 2022” [Xếp hạng cuối năm 2022] (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  461. ^ “Top Canadian Albums – Year-End 2022” [Top Canadian Albums – Cuối năm 2022]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  462. ^ “Album Top-100 2022” [Top 100 album năm 2022] (bằng tiếng Đan Mạch). Hitlisten. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  463. ^ “Jaaroverzichten – Album 2022” [Xếp hạng cuối năm – Album năm 2022]. dutchcharts.nl (bằng tiếng Hà Lan). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  464. ^ “End of Year Album Chart Top 100 – 2022” [Bảng xếp hạng Top 100 album cuối năm – 2022] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  465. ^ “Billboard 200 Albums – Year-End 2022” [Album hàng đầu Billboard 200: Cuối năm 2022]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  466. ^ “Independent Albums – Year-End 2022” [Album Independent – Cuối năm 2022]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  467. ^ “ARIA Top 100 Albums Chart for 2023” [Bảng xếp hạng top 100 album ARIA cuối năm 2023] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  468. ^ “Ö3 Austria Top 40 Jahrescharts 2023” [Ö3 Austria Top 40 Xếp hạng cuối năm 2023] (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. ngày 8 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  469. ^ “Jaaroverzichten 2023” [Xếp hạng cuối năm 2023] (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  470. ^ “Rapports annuels 2023” [Báo cáo cuối năm 2023] (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  471. ^ “Top Canadian Albums – Year-End 2023” [Top Canadian Albums – Year-End 2023]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  472. ^ “Album Top-100 2023” [Top 100 album năm 2023] (bằng tiếng Đan Mạch). Hitlisten. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  473. ^ “Jaaroverzichten – Album 2023” [Xếp hạng cuối năm – Album năm 2023]. dutchcharts.nl (bằng tiếng Hà Lan). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  474. ^ “Jahrescharts 2023 Album” [Xếp hạng album cuối năm 2023] (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment charts. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  475. ^ “Album Top 100 - digitális és fizikai értékesítés alapján - 2023” [Top 100 Album - dựa trên doanh số bán đĩa và kỹ thuật số - 2023] (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  476. ^ “Tónlistinn – Plötur – 2023” [Âm nhạc – Album – 2023] (bằng tiếng Iceland). Plötutíðindi. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  477. ^ “Top Selling Albums of 2023” [Album bán chạy nhất năm 2023] (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  478. ^ “Årslista Album, 2023” [Xếp hạng album cuối năm 2023] (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  479. ^ “Schweizer Jahreshitparade 2023” [Xếp hạng cuối năm 2023]. hitparade.ch (bằng tiếng Đức). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  480. ^ “End of Year Albums Chart – 2023” [Bảng xếp hạng Top 100 album cuối năm – 2023] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  481. ^ “Billboard 200 Albums – Year-End 2023” [Album hàng đầu Billboard 200: Cuối năm 2023]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  482. ^ “Independent Albums – Year-End 2023” [Album Independent – Cuối năm 2023]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  483. ^ “ARIA End of Decade Albums Chart” [Bảng xếp hạng album cuối thập niên ARIA] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  484. ^ a b “Nielsen 2019 Year End Report Canada” [Báo cáo cuối năm 2019 của Nielsen Canada] (PDF). Billboard (bằng tiếng Anh): 41. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  485. ^ Copsey, Rob (ngày 11 tháng 12 năm 2019). “The UK's Official Top 100 biggest albums of the decade” [Top 100 album lớn nhất thập kỷ của bảng xếp hạng Official Anh Quốc] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  486. ^ “Decade-End Charts: Billboard 200” [Bảng xếp hạng cuối thập kỷ: Billboard 200]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 31 tháng 10 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  487. ^ “Ireland's Top 50 Biggest Female Artist Albums” [Top 50 album của nữ nghệ sĩ xuất sắc nhất Ireland] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  488. ^ “Greatest of All Time Billboard 200 Albums” [Album xuất sắc nhất mọi thời đại Billboard 200]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 12 tháng 11 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  489. ^ Caulfield, Keith (ngày 12 tháng 11 năm 2015). “Greatest Billboard 200 Albums & Artists of All Time: Adele's 21 & The Beatles Are Tops” [Billboard 200 Album và nghệ sĩ xuất sắc nhất mọi thời đại: 21 của Adele & The Beatles đứng đầu]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  490. ^ “Greatest of All Time Billboard 200 Albums By Women” [Album xuất sắc nhất mọi thời đại Billboard 200 của nghệ sĩ nữ]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 30 tháng 11 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  491. ^ Trust, Gary (ngày 30 tháng 11 năm 2017). “Madonna, Barbra Streisand, Adele & LeAnn Rimes Are Hot 100 & Billboard 200's Leading Ladies” [Madonna, Barbra Streisand, Adele & LeAnn Rimes là những nghệ sĩ hàng đầu Hot 100 và Billboard 200]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  492. ^ a b “Chứng nhận album Brasil – Taylor Swift – 1989” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  493. ^ “Chứng nhận album Canada – Taylor Swift – 1989” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  494. ^ “Chứng nhận album Đan Mạch – Taylor Swift – 1989” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  495. ^ “Chứng nhận album Pháp – Taylor Swift – 1989” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. ngày 13 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  496. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Taylor Swift; '1989')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  497. ^ “Chứng nhận album Ý – Taylor Swift – 1989” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  498. ^ “Certificaciones” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024. Nhập Taylor Swift ở khúc dưới tiêu đề cột ARTISTA  và 1989 ở chỗ điền dưới cột tiêu đề TÍTULO'.
  499. ^ “Chứng nhận album Hà Lan – Taylor Swift – 1989” (bằng tiếng Hà Lan). Nederlandse Vereniging van Producenten en Importeurs van beeld- en geluidsdragers. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024. Enter 1989 in the "Artiest of titel" box. Select 2015 in the drop-down menu saying "Alle jaargangen".
  500. ^ “Wyróżnienia – płyty CD - Archiwum - Przyznane w 2015 roku” (bằng tiếng Ba Lan). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ba Lan. ngày 15 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  501. ^ “Chứng nhận album Bồ Đào Nha – Taylor Swift – 1989” (PDF) (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Associação Fonográfica Portuguesa. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  502. ^ “Chứng nhận album Tây Ban Nha – Taylor Swift – 1989”. El portal de Música (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  503. ^ “Veckolista Album, vecka 46, 2017 | Sverigetopplistan” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024. Kéo xuống vị trí 50 để xem chứng nhận.
  504. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận ('1989')” (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  505. ^ Caulfield, Keith (ngày 18 tháng 1 năm 2024). “Taylor Swift's '1989 (Taylor's Version)' Surpasses 2 Million in U.S. Sales” ['1989 (Taylor's Version)' của Taylor Swift vượt mốc 2 triệu bản bán ra tại Mỹ]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  506. ^ 1989 – Album – Canada” [1989 – Album – Canada] (bằng tiếng Anh). Amazon. ngày 27 tháng 10 năm 2014. ASIN B00MRHANNI. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  507. ^ 1989 – Album – Canada” [1989 – Album – Canada] (bằng tiếng Anh). iTunes Store. Apple, Inc. ngày 27 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  508. ^ 1989 – Album – United States” [1989 – Album – Hoa Kỳ] (bằng tiếng Anh). Barnes and Noble. ngày 9 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  509. ^ 1989 – Album – Australia” [1989 – Album – Úc] (bằng tiếng Anh). Sanity. ngày 28 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  510. ^ 1989 – Album – Japan” [1989 – Album – Nhật Bản] (bằng tiếng Nhật). HMV. ngày 29 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  511. ^ 1989 – Album – Canada (Vinyl)” [1989 – Album – Canada (Vinyl)] (bằng tiếng Anh). Amazon. ngày 9 tháng 12 năm 2014. ASIN B00P2HSETA. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  512. ^ 1989 – Album – United States (Vinyl)” [1989 – Album – Hoa Kỳ (Vinyl)] (bằng tiếng Anh). Barnes and Noble. ngày 9 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  513. ^ “Taylor Swift Karaoke: 1989 – Album – United States” [Taylor Swift Karaoke: 1989 – Album – Hoa Kỳ] (bằng tiếng Anh). iTunes Store. Apple, Inc. ngày 15 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  514. ^ 1989 (Deluxe) – Album – Mainland China” [1989 (Deluxe) – Album – Trung Quốc đại lục] (bằng tiếng Trung). Amazon. ngày 30 tháng 12 năm 2014. ASIN B00QWC2HB0. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  515. ^ “Taylor Swift Karaoke: 1989 – Album – Canada” [Taylor Swift Karaoke: 1989 – Album – Canada] (bằng tiếng Anh). iTunes Store. Apple, Inc. ngày 3 tháng 3 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  516. ^ 1989 [CD+G/DVD] – Album – United States” [1989 [CD+G/DVD] – Album – Hoa Kỳ] (bằng tiếng Anh). Amazon. ngày 14 tháng 4 năm 2015. ASIN B00UXA96G6. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  517. ^ 1989 Karaoke (Limited Deluxe) – Album – Canada” [1989 Karaoke (Deluxe giới hạn) – Album – Canada] (bằng tiếng Anh). Amazon. ngày 14 tháng 5 năm 2015. ASIN B00UXA96G6. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  518. ^ Priest, David (ngày 21 tháng 6 năm 2017). “Taylor Swift's streaming music earns $400K in first 12 days back” [Nhạc trực tuyến của Taylor Swift kiếm được 400 nghìn đô la trong 12 ngày đầu tiên trở lại] (bằng tiếng Anh). CNET. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.

Nguồn xuất bản

Liên kết ngoài

Read other articles:

Gambar seorang raja dari Zafar, s. 450–525 CE. May represent Dhū Nuwās (note the prominent sidelocks). Dhū Nuwās, (Arab: ذو نواسcode: ar is deprecated ) atau Yūsuf bin Syarhabil (Arab: يوسف بن شرحبيلcode: ar is deprecated )[1] Suryani Masruq; Yunani Dounaas (Δουναας), adalah seorang raja Yudais dari Ḥimyar antara 517 dan 525-27 M. Ia diketahui pada catatan kisah militernya melawan suku bangsa beragama lain yang tinggal di kerajaannya. Catatan ^ The Co...

 

Part of a series onBritish law Acts of Parliament of the United Kingdom Year      1801 1802 1803 1804 1805 1806 1807 1808 1809 1810 1811 1812 1813 1814 1815 1816 1817 1818 1819 1820 1821 1822 1823 1824 1825 1826 1827 1828 1829 1830 1831 1832 1833 1834 1835 1836 1837 1838 1839 1840 1841 1842 1843 1844 1845 1846 1847 1848 1849 1850 1851 1852 1853 1854 1855 1856 1857 1858 1859 1860 1861 1862 1863 1864 1865 1866 1867 1868 1869 1870 1871 1872 1873 1874 1875 1876 1877 1878 ...

 

Location of Halifax County in Virginia This is a list of the National Register of Historic Places listings in Halifax County, Virginia. This is intended to be a complete list of the properties and districts on the National Register of Historic Places in Halifax County, Virginia, United States. The locations of National Register properties and districts for which the latitude and longitude coordinates are included below, may be seen in an online map.[1] There are 39 properties and dis...

Cet article est une ébauche concernant une université et la Bulgarie. Vous pouvez partager vos connaissances en l’améliorant (comment ?) selon les recommandations des projets correspondants. Université de scienceséconomiques de VarnaHistoireFondation 1920StatutType UniversitéNom officiel Икономически Университет - ВарнаRecteur Kalyou Ivanov DonevSite web www.ue-varna.bgLocalisationPays BulgarieVille VarnaLocalisation sur la carte de Bulgariemodifier -...

 

Russian model (born 1982) This article has multiple issues. Please help improve it or discuss these issues on the talk page. (Learn how and when to remove these template messages) Some of this article's listed sources may not be reliable. Please help improve this article by looking for better, more reliable sources. Unreliable citations may be challenged and removed. (January 2017) (Learn how and when to remove this template message) This article contains content that is written like an adver...

 

Lambang Provinsi Papua Pegunungan Peta lokasi Provinsi Papua Pegunungan di Indonesia Provinsi Papua Pegunungan memiliki 8 kabupaten dan tidak mempunyai kota dengan ibukota di Jayawijaya. Berikut daftar kabupaten dan/atau kota di provinsi Papua Pegunungan; No. Kabupaten/kota Ibu kota Bupati/wali kota Luas wilayah (km²) Jumlah penduduk Distrik Kelurahan/kampung Lambang Peta lokasi 1 Kabupaten Jayawijaya Wamena Sumule Tumbo (Pj.) 13.925,31 277.923 40 4/328 2 Kabupaten Lanny Jaya Tiom Petrus Wa...

2015 American filmDanny SaysFilm posterDirected byBrendan TollerWritten byBrendan TollerProduced byPamela LubellRelease date March 18, 2015 (2015-03-18) (SXSW) Running time104 minutesCountryUnited StatesLanguageEnglish Danny Says is a 2015 documentary film on the life and times of Danny Fields. The film is directed by Brendan Toller and produced by Pamela Lubell.[1] Magnolia Pictures acquired the worldwide rights in January 2016.[2] In 2015, Danny Says was f...

 

Strait at the narrowest part of the English Channel Dover StraitView from France across the Strait of Dover towards the English coastLocationNorth Sea–English Channel (Atlantic Ocean)Coordinates51°00′N 1°30′E / 51.000°N 1.500°E / 51.000; 1.500TypeStraitBasin countriesFranceUnited KingdomMin. width20 miles (32 km)Average depth150 feet (46 m) The Strait of Dover or Dover Strait (French: Pas de Calais French pronunciation: [pɑ d(ə) kalɛ]...

 

This article needs additional citations for verification. Please help improve this article by adding citations to reliable sources. Unsourced material may be challenged and removed.Find sources: Eldred v. Ashcroft – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (June 2011) (Learn how and when to remove this template message) 2003 United States Supreme Court caseEldred v. AshcroftSupreme Court of the United StatesArgued October 9, 2002Decided January 15,...

Zwickau Greater district townmajor regional centerurban municipality in Germanydistrict capital Zwickau (de) Tempat Negara berdaulatJermanNegara bagian di JermanSaxoniaRural district of SaxonyZwickau Ibu kota dariQ15621863 Zwickau Q1787592 Kreishauptmannschaft Zwickau NegaraJerman PendudukTotal87.172  (2022 )GeografiLuas wilayah102,58 km² [convert: unit tak dikenal]Ketinggian267 m Organisasi politik• Kepala pemerintahanPia Findeiß  (2008 )Informasi tambahanKode pos...

 

У этого термина существуют и другие значения, см. Пашковский сельский округ. сельский округПашковский сельский округ 45°01′24″ с. ш. 39°13′10″ в. д.HGЯO Страна  Россия Входит в Карасунский округ города Краснодара Краснодарского края Включает 6 населённых пунктов �...

 

هايك مؤسس الأمة الأرمنيَّة الأسطوري. القومية الأرمنية (بالأرمنيّة: Հայկական ազգայնականություն) تعود جذورها في الفترة الحديثة له جذوره إلى الرومانسي القومي ميكاييل شامشميان (1738-1823) والذي دعا عمومًا إلى خلق كيان حر ومستقل يسمى بأرمينيا المتحدة باعتبارها حل للقضية الأرمنية....

يفتقر محتوى هذه المقالة إلى الاستشهاد بمصادر. فضلاً، ساهم في تطوير هذه المقالة من خلال إضافة مصادر موثوق بها. أي معلومات غير موثقة يمكن التشكيك بها وإزالتها. (يوليو 2019) منتخب أرمينيا تحت 19 سنة لكرة القدم بلد الرياضة أرمينيا  الفئة كرة قدم للرجال تحت 19 سنة  [لغات أخرى]&#...

 

Spanish footballer In this Spanish name, the first or paternal surname is Mariño and the second or maternal family name is Villar. Diego Mariño Mariño with Valladolid in 2014Personal informationFull name Diego Mariño Villar[1]Date of birth (1990-05-09) 9 May 1990 (age 34)[2]Place of birth Vigo, SpainHeight 1.87 m (6 ft 2 in)[2]Position(s) GoalkeeperTeam informationCurrent team AlmeríaNumber 1Youth career Santa Mariña1998–2000 Rápido...

 

Stadium in Houston, Texas, United States NRG StadiumInterior of NRG Stadium in February 2017 prior to Super Bowl LI.NRG StadiumLocation in TexasShow map of TexasNRG StadiumLocation in the United StatesShow map of the United StatesFormer namesReliant Stadium (2002–2014)Address1 NRG ParkwayLocationHouston, TexasCoordinates29°41′5″N 95°24′39″W / 29.68472°N 95.41083°W / 29.68472; -95.41083Public transit Stadium Park/AstrodomeOwnerHarris County Sports and Conv...

الحشاش قرية تقسيم إداري  قائمة الدول  السعودية  مناطق السعودية محافظة خليص، منطقة مكة المكرمة معلومات أخرى منطقة زمنية توقيت شرق أفريقيا (ت.ع.م+3)  توقيت صيفي توقيت شرق أفريقيا (ت.ع.م +3) تعديل مصدري - تعديل   الحشاش قرية سعودية، تتبع محافظة خليص بمنطقة مكة المكرمة....

 

象牙海岸共和國République de Côte d'Ivoire(法語) 国旗 国徽 格言:Union - Discipline - Travail   ((法文))“团结,纪律,劳动”国歌:《阿比让之歌》(L'Abidjanaise) 首都雅穆索戈中央政府所在地阿比让最大城市阿比让官方语言法語官方文字法文宗教基督宗教政治體制總統制法律體系大陸法系领导人• 總統 阿拉薩內·瓦塔拉• 总理 達尼埃爾·卡布蘭·敦坎 成立•&#...

 

Empat Belas Penolong KudusDimuliakan dalamGereja KatolikPerayaan8 Agustus (lokal) Lukisan Empat Belas Penolong Kudus Empat Belas Penolong Kudus atau Empat Belas Penolong Suci adalah sekelompok orang kudus yang dimuliakan bersamaan dalam Katolik Roma karena pengorbanan mereka yang diyakini sangat efektif, khususnya melawan berbagai penyakit. Kelompok Nothelfer (penolong orang yang membutuhkan) ini bermula pada abad ke-14 mula-mula di Rhineland, kebanyakan sebagai dampak dari wabah (kemungkinan...

トルコ軍Turk Silahl Kuvvetleri創設 紀元前209年(公式な主張)[1] 1920年5月3日(トルコ大国民議会の軍隊として)[1]派生組織 主力: トルコ陸軍 トルコ海軍 トルコ空軍 トルコ戦争学校(英語版) 内務省所属: ジャンダルマ トルコ沿岸警備隊本部 アンカラ指揮官最高司令官 レジェップ・タイイップ・エルドアン大統領国防大臣 フィクリ・イシュク(英語版)参謀長 フル�...

 

1987 single by Curiosity Killed the Cat Ordinary DaySingle by Curiosity Killed the Catfrom the album Keep Your Distance B-sideBulletReleased23 March 1987 (1987-03-23)[1]GenreSophisti-popLength3:53LabelMercurySongwriter(s) Curiosity Killed the Cat Toby Andersen Producer(s)Paul Staveley O'DuffyCuriosity Killed the Cat singles chronology Down to Earth (1986) Ordinary Day (1987) Misfit (1987) Ordinary Day is a song by English band Curiosity Killed the Cat, released in March...