Xã Đông Thịnh có diện tích 4,35 km²[1], dân số năm 1999 là 4.803 người, mật độ dân số đạt 1.104 người/km².
Hành chính
Xã Đông Thịnh được chia thành 10 xóm: 1, 2 (Đà Ninh), 3, 4, 5 (Đại Từ), 6, 7, 8 (Ngọc Lậu), 9, 10 (Đoàn Kết).[3]
Lịch sử
Đầu thế kỷ 19, dưới thời vua Gia Long, địa bàn xã Đông Thịnh lúc đó gồm phần lớn xã Doãn Xá (các thôn Cửa Bụt, Ngọc Lậu, Đà Ninh) và các sở Tĩnh Gia, Mai Xuyên, thuộc huyện Đông Sơn.[4] Xã Doãn Xá (尹舍) lúc này gồm các thôn Cửa Bụt, Ngọc Lậu, Đà Ninh cùng với thôn Nhuệ Thám (từ 2015 là khu phố Nhuệ Sâm, thị trấn Rừng Thông), thôn Mộc Nhuận (từ năm 1948 thuộc xã Đông Yên)[4],[5].
Trước đó, làng Doãn Xá được lập nên từ năm 1322 là đất phonghầu của Doãn Bang Hiến, thượng thư Bộ Hình thời Trần Minh Tông, sau chuyến đi sứ nhà Nguyên[6][7][8], sau là các thôn Ngọc Lậu, Đà Ninh, Đại Từ thuộc xã Đông Thịnh, thôn Nhuệ Sâm xã Đông Xuân (từ 2015 đến nay thuộc thị trấn Rừng Thông) và một phần các xã Đông Yên (làng Doãn), Đông Văn (thôn Thiều).
Năm 1824 (Minh Mệnh thứ 5), tổng Lê Nguyễn đổi thành tổng Thanh Hoa, đồng thời thôn Cửa Bụt (xã Doãn Xá) đổi thành thôn Đại Từ.[9]
Vào cuối thế kỷ 19, tổng Thanh Hoa đổi thành tổng Tuyên Hóa. Vùng đất xã Đông Thịnh lúc đó gồm xã Mai Xuyên, sở Tĩnh Gia và các thôn Đại Từ, Ngọc Lậu, Đà Ninh thuộc xã Doãn Xá, đều thuộc tổng Tuyên Hóa[10].
Năm 1946, các tổng cũ của phủ Đông Sơn được chia thành 22 xã, trong đó tổng Tuyên Hóa (gồm các xã Tuyên Hóa, Thanh Oai, Viên Khê, Mai Xuyên, Doãn Xá, Phúc Khê, sở Tĩnh Gia) chuyển thành xã Tuyên Hóa.[11]
Năm 1948, xã Tuyên Hóa đổi tên thành xã Đông Anh[11].
Năm 1954, xã Đông Anh chia thành ba xã Đông Anh, Đông Xuân và Đông Thịnh[12].
Năm 1977, các xã hữu ngạn sông Chu thuộc huyện Thiệu Hóa sáp nhập với huyện Đông Sơn thành huyện Đông Thiệu, xã Đông Thịnh thuộc huyện Đông Thiệu.
Năm 1982, huyện Đông Thiệu đổi lại là huyện Đông Sơn, xã Đông Thịnh lại thuộc huyện Đông Sơn.
Xã hội
Giáo dục
Xã Đông Thịnh có 1 trường tiểu học và 1 trường trung học cơ sở.
Làng Đà Ninh có đền và bia quan Quận (thời Lê)[3].
Bia mộ quan thừa sử Phan Sỹ Đạo có công lập làng thời Lê Trung Hưng[3].
Kênh Nhà Lê: là tuyến đường thủy đầu tiên trong lịch sử Việt Nam từ kinh đô Hoa Lư đến Đèo Ngang và được xem là tuyến đường Hồ Chí Minh trên sông vì những đóng góp cho các cuộc chiến tranh của người Việt.
^ abQuyết định số 19/2006/QĐ-BTNMT ngày 01/12/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc ban hành Danh mục địa danh các đơn vị hành chính Việt Nam thể hiện trên bản đồ
^ abcdLỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên LangThanhhoaII
^ abDương Thị The, Phạm Thị Thoa (dịch và biên soạn). Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra (Các tổng trấn xã danh bị lãm). Khoa học xã hội, 1981. tr. 111-112.