Lớp John C. Butler được thiết kế nhằm đáp ứng nhu cầu một số lượng lớn nhưng rẻ tiền của một kiểu tàu hộ tống chống tàu ngầm để hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt đại dương.[2] Chúng có chiều dài chung 306 foot (93,3 m), mạn tàu rộng 36 foot 10 inch (11,2 m) và mớn nước 13 foot 4 inch (4,1 m),[1]trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.350 tấn Anh (1.372 t), và lên đến 1.745 tấn Anh (1.773 t) khi đầy tải, với một thủy thủ đoàn bao gồm 14 sĩ quan và 201 thủy thủ.[3] Con tàu được vận hành bởi hai turbine hơi nước hộp số Westinghouse; hơi nước được cung cấp bởi hai nồi hơi "D" Express, tạo ra công suất 12.000 mã lực càng (8.900 kW) và cho phép đạt được tốc độ tối đa 24 hải lý trên giờ (44 km/h; 28 mph). Nó có tầm hoạt động 6.000 hải lý (11.000 km; 6.900 mi) ở tốc độ đường trường 12 hải lý trên giờ (22 km/h; 14 mph).[3]
Khởi hành từ Apra Harbor, Guam vào ngày 17 tháng 9, Straus hộ tống một đơn vị tiếp liệu đi đến gia nhập cùng Đội đặc nhiệm 30.8, đội tiếp liệu chính có nhiệm vụ hỗ trợ cho các tàu sân bay thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 58. Nó tách khỏi thành phần hộ tống vào ngày 23 tháng 9 để điều tra một bè cứu sinh được phát hiện ở phía Tây đảo Cocos, tìm thấy ba sĩ quan và hai binh lính Lục quân Nhật Bản; hai người lính đã tự tử trong khi ba người kia chấp nhận bị bắt làm tù binh. Nó gia nhập trở lại đội tiếp liệu vào ngày hôm sau để tiếp nhiên liệu cho lực lượng đặc nhiệm, rồi quay trở về Saipan. Nó lên đường đi Eniwetok vào ngày 1 tháng 10 để tiếp nối vai trò hộ tống vận tải.[1]
Lên đường vào ngày 8 tháng 10, Straus hộ tống một đoàn tàu vận tải hướng sang Ulithi, đến nơi năm ngày sau đó, và trở thành tàu căn cứ cho Tư lệnh Đội tuần tra và Hộ tống Tây Caroline. Nó cùng Đội hộ tống 65 di chuyến đến khu vực quần đảo Palau vào ngày 15 tháng 11, làm nhiệm vụ bảo vệ chung quanh Peleliu và Angaur. Vào ngày 18 tháng 11, sau khi có báo cáo về việc binh lính đối phương bơi từ đảo Eli Malk sang Peleliu trong đêm tối, con tàu đã bắn đạn pháo sáng hỗ trợ trong khi một chi hạm đội tàu đổ bộ tấn công đối phương bằng súng máy. Nó quay trở về Ulithi vào ngày 26 tháng 11 để hoạt động hộ tống vận tải cho đến tháng 3, 1945, khi được huy động gia nhập Đệ Ngũ hạm đội.[1]
Cùng với một đơn vị đặc nhiệm tiếp liệu, Straus rời Ulithi vào ngày 26 tháng 3 để gia nhập Đội đặc nhiệm 50.8, đội tiếp liệu chính có nhiệm vụ tiếp nhiên liệu và tiếp liệu các tàu sân bay nhanh tham gia Chiến dịch Okinawa. Nó hoạt động cùng đội tiếp liệu cho đến ngày 26 tháng 6, rồi khởi hành từ Ulithi hai ngày sau đó hộ tống một đoàn tàu vận tải hướng sang Okinawa, đến nơi vào ngày 2 tháng 7. Con tàu vẫn đang hoạt động tuần tra chống tàu ngầm tại vùng biển quần đảo Ryūkyū khi Nhật Bảnchấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột.[1]
Vào ngày 19 tháng 9, Straus cùng với một lực lượng, bao gồm một tàu tuần dương và năm tàu khu trục và tàu hộ tống khu trục, lên đường hướng sang Nhật Bản, đi đến Sasebo vào ngày hôm sau. Nó tách ra để tham gia cùng hai tàu sân bay để đi đến ngoài khơi Kyūshū, thực hiện các phi vụ tuần tra trôn không đề phòng bất trắc. Con tàu quay trở lại Sasebo vào ngày 25 tháng 9 và ở lại đây cho đến ngày 15 tháng 10, khi nó lên đường quay trở về Hoa Kỳ ngang qua Saipan và Trân Châu Cảng, về đến San Diego vào ngày 5 tháng 11.[1]