Lớp John C. Butler được thiết kế nhằm đáp ứng nhu cầu một số lượng lớn nhưng rẻ tiền của một kiểu tàu hộ tống chống tàu ngầm để hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt đại dương.[3] Chúng có chiều dài chung 306 foot (93,3 m), mạn tàu rộng 36 foot 10 inch (11,2 m) và mớn nước 13 foot 4 inch (4,1 m),[1]trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.350 tấn Anh (1.372 t), và lên đến 1.745 tấn Anh (1.773 t) khi đầy tải, với một thủy thủ đoàn bao gồm 14 sĩ quan và 201 thủy thủ.[4] Con tàu được vận hành bởi hai turbine hơi nước hộp số Westinghouse; hơi nước được cung cấp bởi hai nồi hơi "D" Express, tạo ra công suất 12.000 mã lực càng (8.900 kW) và cho phép đạt được tốc độ tối đa 24 hải lý trên giờ (44 km/h; 28 mph). Nó có tầm hoạt động 6.000 hải lý (11.000 km; 6.900 mi) ở tốc độ đường trường 12 hải lý trên giờ (22 km/h; 14 mph).[4]
Vào ngày 25 tháng 10, Dennis nằm trong thành phần Đơn vị Đặc nhiệm 77.4.3, vốn trở nên nổi tiếng với tên mã gọi vô tuyến Taffy 3, là đơn vị chịu đựng đòn tấn công chính của Lực lượng Trung tâm Nhật Bản trong khuôn khổ Trận chiến ngoài khơi Samar, một phần của cuộc Hải chiến vịnh Leyte. Được phân công bảo vệ các tàu sân bay hộ tống, Dennis được bố trí như chốt chặn cuối cùng giữa hàng rào tàu khu trục và tàu hộ tống khu trục với các tàu sân bay, và được ghi nhận đã phóng ngư lôi đánh chìm cho một tàu tuần dương hạng nặng, và sau đó cứu vớt 434 người sống sót từ chiếc St. Lo (CVE-63), sau khi chiếc tàu sân bay hộ tống bị đắm do máy bay tấn công tự sát Kamikaze đánh trúng. Con tàu đã được chia sẻ danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống dành cho Đơn vị Đặc nhiệm 77.4.3 cho hoạt động này. Sau khi trận chiến kết thúc, nó cùng đơn vị rút lui về Kossol Roads, Palau vào ngày 28 tháng 10, rồi tiếp tục hành trình ba ngày sau đó để quay trở về Hoa Kỳ, về đến San Francisco, California vào ngày 26 tháng 11, để được sửa chữa, đại tu và nâng cấp.[1]
Quay trở lại vùng chiến sự, Dennis khởi hành từ Guam vào ngày 16 tháng 2, 1945 để tham gia cuộc đổ bộ lên Iwo Jima, và ở lại khu vực cho đến ngày 8 tháng 3, khi nó lên đường hộ tống một đoàn tàu đi Ulithi. Đến ngày 21 tháng 3, nó gia nhập thành phần hộ tống một đội đặc nhiệm tàu sân bay, và tiến hành không kích chuẩn bị cho cuộc đổ bộ tiếp theo lên Okinawa, và sau đó tiếp tục bảo vệ các tàu sân bay khi chúng hỗ trợ trên không cho trận chiến trên bộ tại quần đảo Ryūkyū này. Đến ngày 4 tháng 5, nó cứu vớt 88 người từ tàu sân bay hộ tống Sangamon (CVE-26) vốn bị máy bay tấn công tự sát Kamikaze đâm trúng, rồi sau đó phục vụ như trạm canh phòng radar tại Ulithi từ ngày 9 tháng 5 đến ngày 3 tháng 6. Quay trở lại Okinawa, nó tham gia cùng Đệ Tam hạm đội trong những lượt không kích lên chính quốc Nhật Nản cho đến ngày 26 tháng 6.[1]