Rogers sau đó còn được phái sang phục vụ nhiều lượt tại Viễn Đông. Vào năm 1948, nó tham gia Chiến dịch Sandstone, cuộc thử nghiệm bom nguyên tử tại khu vực đảo san hô Eniwetok; vào năm 1949 nó giúp vào việc di tản công dân Hoa Kỳ khỏi Trung Quốc sau khi phe Trung Cộng đánh bại lực lượng Quốc Dân đảng. Vào ngày 18 tháng 3, 1949, sau khi được trang bị bổ sung radar đo độ cao cùng những thiết bị thông tin liên lạc tiên tiến, đồng thời tháo dỡ các dàn ống phóng ngư lôi, con tàu được xếp lại lớp như một tàu khu trục cột mốc radar, và mang ký hiệu lườn mới DDR-876.[1]
Sau khi xung tại Triều Tiên chấm dứt nhờ đặt được thỏa thuận ngừng bắn, Rogers tiếp tục luân phiên các hoạt động thường lệ và bảo trì tại vùng bờ Tây với những lượt được cử sang phục vụ tại khu vực Tây Thái Bình Dương, kéo dài từ sáu đến chín tháng. Nó đã can thiệp trong vụ Khủng hoảng eo biển Đài Loan lần 1 khi bảo vệ cho lực lượng Trung Hoa dân quốc (Đài Loan) triệt thoái khỏi quần đảo Đại Trần vào năm 1954. Tính cho đến năm 1960, chiếc tàu khu trục đã hơn 12 lần được phái sang phục vụ tại Viễn Đông.[1]
Sau một giai đoạn hoạt động cùng Đệ Nhất hạm đội tại vùng bờ Tây, Rogers lại được phái sang hoạt động tại Viễn Đông vào tháng 1, 1962, nơi nó hoạt động cùng các đội đặc nhiệm tàu sân bay và tuần tra tại khu vực eo biển Đài Loan, cũng như tham gia các cuộc tập trận đổ bộ. Khi quay trở lại hoạt động cùng Đệ Nhất hạm đội tại vùng bờ Tây, vào chiều tối ngày 12 tháng 11, nó đã cứu vớt một phi công từ tàu sân bay Ticonderoga (CV-14), bị buộc phải phóng ra khỏi máy bay của mình trong hoàn cảnh thời tiết sương mù dày đặc tại vùng biển Nam California.[1]
Chiến tranh Việt Nam
Sau 18 năm hoạt động tại vùng biển Thái Bình Dương, Rogers rời San Diego vào tháng 6, 1963 để đi sang vùng bờ Đông; và đi đến Xưởng hải quân Charleston tại Charleston, South Carolina, nơi nó được sửa chữa và đồng thời nâng cấp trong khuôn khổ Chương trình Hồi sinh và Hiện đại hóa Hạm đội (FRAM: Fleet Rehabilitation and Modernization). Trong đợt này, ngoài nhiều cải tiến nhằm kéo dài tuổi thọ phục vụ, nó còn được bổ sung những cảm biến và vũ khí chống ngầm, bao gồm tên lửa chống ngầm RUR-5 ASROC và máy bay trực thăng không người lái chống ngầm Gyrodyne QH-50 DASH. Con tàu được xếp lại lớp như một tàu khu trục thông thường, và lấy lại ký hiệu lườn cũ DD-876 vào ngày 30 tháng 7, 1963. Nó quay trở lại cùng Hạm đội Thái Bình Dương vào tháng 5, 1964.[1]
Vào mùa Hè năm 1965, trong thành phần một hải đội huấn luyện thực hành cho học viên sĩ quan, Rogers đã viếng thăm San Francisco, Puget Sound và Hawaii. Nó đi sang vùng biển Việt Nam một năm sau đó, làm nhiệm vụ Tìm kiếm và giải cứu (SAR: Search and Rescue) trong vịnh Bắc Bộ cũng như hỗ trợ hải pháo dọc bờ biển. Khi quay trở về San Diego vào tháng 8, 1966, nó hoạt động cùng Đệ Nhất hạm đội tại vùng bờ Tây cho đến khi được phái sang hoạt động tại khu vực Tây Thái Bình Dương vào tháng 9, 1967. Con tàu hoạt động tại vịnh Bắc Bộ từ giữa tháng 11, và quay trở về San Diego, California vào tháng 4, 1968.[1]
Từ đó cho đến hết năm 1968, Rogers hoạt động cùng Đệ Nhất hạm đội tại vùng bờ Tây. Nó lại được phái sang Viễn Đông vào tháng 1, 1969. Trên đường đi tại vùng biển Hawaii vào ngày 14 tháng 1, nó đã giúp vào việc chữa cháy cho Enterprise (CVN-65) khi chiếc tàu sân bay gặp tai nạn hỏa hoạn do nổ đạn dược. Chiếc tàu khu trục đã trợ giúp sáu vòi phun chữa cháy hướng vào đuôi chiếc tàu sân bay, trong khi bản thân phải hứng chịu mảnh đạn do các vụ nổ bom và rocket. Hoàn tất lượt phục vụ tại Viễn Đông và Việt Nam, nó quay trở về San Diego vào ngày 6 tháng 7, 1969; và sau một năm hoạt động cùng Đệ Nhất hạm đội tại vùng bờ Tây, nó lại khởi hành từ San Diego cho một lượt hoạt động khác tại Việt Nam trong năm 1970. Sau năm tháng phục vụ tại Viễn Đông, nó quay trở về San Diego vào ngày 16 tháng 12, 1970.[1]
Rogers tiếp tục trải qua một giai đoạn hoạt động thường lệ tại vùng bờ Tây, rồi lại rời San Diego vào ngày 29 tháng 6, 1971 khi một lần nữa được phái sang hoạt động tại khu vực Tây Thái Bình Dương; nó quay trở về San Diego vào ngày 22 tháng 12. Trong một năm tiếp theo nó hoạt động thường lệ cùng Đệ Nhất hạm đội tại vùng bờ Tây, và vào đầu tháng 4, 1972 đã đi vào Xưởng hải quân Hunters Point cho một lượt đại tu theo định kỳ. Khi công việc trong xưởng tàu kết thúc vào ngày 28 tháng 8, nó tiến hành chạy thử máy và huấn luyện ôn tập cho đến giữa tháng 12. Con tàu lên đường vào ngày 18 tháng 12 để hướng sang vịnh Subic, Philippines, nhưng phải quay trở lại ba ngày sau đó do có một trường hợp cấp cứu y tế. Nó lại lên đường ngay ngày hôm đó 21 tháng 12, và đi đến vịnh Subic vào ngày 29 tháng 1, 1973. Lúc này Hiệp định Paris 1973 thỏa thuận ngừng bắn đã có hiệu lực, và chiếc tàu khu trục chỉ tuần tra trong hòa bình cho đến khi quay trở về San Diego vào ngày 12 tháng 6. Con tàu tiếp tục hoạt động cùng Đệ Nhất hạm đội tại vùng bờ Tây cho đến năm 1974.[1]
1974 - 1980
Vào năm 1974, Rogers chuyển cảng nhà đến Portland, Oregon, và được điều động sang Hải đội Khu trục 37, làm nhiệm vụ huấn luyện cho Hải quân Dự bị Hoa Kỳ tại khu vực Portland. Nó tiến hành những chuyến đi huấn luyện và thực tập đến Seattle, San Francisco và San Diego để huấn luyện nhân sự của Hải quân Dự bị, và tiếp tục vai trò này cho đến năm 1980. Nó được cho xuất biên chế vào ngày 19 tháng 2, 1981, và rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 10, 1980.[1]
^ abcdefghijklmno“Rogers (DD-876)”. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Naval History and Heritage Command. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2021.