Thiết kế của lớp Crosley dựa trên việc cải biến lớp tàu hộ tống khu trụcRudderow. Cấu trúc thượng tầng con tàu được mở rộng, đồng thời tháo dỡ bớt vũ khí trang bị để lấy chỗ bố trí nơi nghỉ cho 162 binh lính được vận chuyển cùng khoảng 40 tấn trang bị. Hệ thống động lực tương tự như với các lớp Buckley và Rudderow; là kiểu động cơ turbine-điện General Electric, cung cấp điện năng cho mô-tơ điện để dẫn động hai trục chân vịt.[2][3]
Dàn vũ khí được giữ lại bao gồm một khẩu pháo 5 inch (130 mm)/38 cal bố trí một phía trước mũi; ba khẩu đội pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đôi và sáu pháo phòng không Oerlikon 20 mm; vũ khí chống ngầm gồm hai đường ray Mk. 9 để thả mìn sâu.[4][5] Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 15 sĩ quan và 168 thủy thủ; và con tàu được bố trí tiện nghi để vận chuyển 12 sĩ quan cùng 150 binh lính đổ bộ.[4]
Khởi hành từ Little Creek vào ngày 5 tháng 3, 1951, Kleinsmith tham gia lượt đầu tiên trong số bốn lượt được biệt phái sang phục vụ tại Địa Trung Hải. Đi đến Gibraltar vào ngày 15 tháng 3, cùng với một đội UDT được phối thuộc trên tàu, nó gia nhập Đệ Lục hạm đội và tham dự các cuộc thao dượt đổ bộ trải dài từ Oran, Algeria cho đến vịnh Phaleron, Hy Lạp. Sau khi phục vụ như một tàu chỉ huy đổ bộ, nó rời Gibraltar vào ngày 26 tháng 6 để quay trở về Hoa Kỳ, về đến Little Creek vào ngày 6 tháng 7. Đến ngày 19 tháng 7, 1952, nó lên đường cho lượt phục vụ thứ hai kéo dài bốn tháng cùng Đệ Lục hạm đội, và hỗ trợ các nỗ lực gìn giữ hòa bình tại khu vực Đông Địa Trung Hải vốn đang chịu đựng những biến động và bất ổn chính trị.[1]
Quay trở về Little Creek vào ngày 29 tháng 1, 1955, Kleinsmith hoạt động huấn luyện và bảo trì thường lệ trong thời bình dọc theo vùng bờ Đông và vùng biển Caribe. Nó lại lên đường vào ngày 9 tháng 1, 1957 cho một lượt phục vụ khác cùng Đệ Lục hạm đội, và đã hoạt động trong gần ba tháng tại khu vực Đông Địa Trung Hải. Đáp ứng yêu cầu của Vua Hussein khi chính phủ Jordan bị phe cánh tả được Ai Cập hậu thuẩn đe dọa lật đổ, con tàu rời La Spezia, Ý vào ngày 25 tháng 4 để hướng sang vùng Trung Đông, đi đến ngoài khơi Beirut, Lebanon vào ngày 30 tháng 4, tham gia cùng Đệ Lục hạm đội để biểu dương lực lượng, nhằm khẳng định quan điểm của Hoa Kỳ duy trì sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia trong vùng. Con tàu ở lại khu vực này cho đến ngày 3 tháng 5, rồi khởi hành từ Rhodes, Hy Lạp vào ngày 18 tháng 5 để quay trở về Hoa Kỳ, về đến Little Creek vào ngày 1 tháng 6.[1]
Chỉ không đầy ba tháng sau đó, Kleinsmith lại phải lên đường để đi sang khu vực Địa Trung Hải, đi đến Palermo, Sicily vào ngày 15 tháng 9. Chính phủ quân sự thân Liên Xô của Syria tranh chấp khu vực İskenderun với Thổ Nhĩ Kỳ và cáo buộc đối thủ tập trung quân đội tại biên giới, hình thành nên nguy cơ một cuộc xung đột. Vì vậy chiếc tàu vận chuyển cao tốc phải nhanh chóng đi đến khu vực Đông Địa Trung Hải vào ngày 19 tháng 9, và ở lại khu vực này cho đến ngày 4 tháng 11. Nó rời Barcelona, Tây Ban Nha và quay về đến Little Creek vào ngày 17 tháng 11.[1]
Con tàu phục vụ cùng Hải quân Trung Hoa dân quốc như là chiếc ROCS Tien Shan (APD-315) (天山-Thiên Sơn);[1][6][7] số hiệu tàu sau đó lần lượt đổi thành 215, 615, và 815. Vào đầu thập niên 1970, nó được bổ sung một tháp pháo 5 inch/38 caliber phía đuôi tàu, một dàn bốn ống phóng tên lửa đất đối khôngRIM-72C Sea Chaparral, là phiên bản trên hạm của kiểu MIM-72 Chaparral, cùng một dàn ngư lôi chống ngầm. Đến thập niên 1980, nó cùng những chiếc cùng lớp được chuyển giao cho Đài Loan được chuyển sang vai trò kiểm ngư; vũ khí trang bị chỉ còn lại một khẩu đội Bofors 40 mm nòng đôi trước mũi tàu. Nó phục vụ trong vai trò này ít nhất cho đến năm 1993,[1] những nguồn khác cho rằng con tàu bị loại bỏ vào khoảng năm 1997 hay 1998.[6]
^Rivet, Eric; Stenzel, Michael. “Classes of Destroyer Escorts”. History of Destroyer Escorts. Destroyer Escort Historical Museum. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2022.