Thiết kế của tàu ngầm Type IXB là phiên bản nâng cấp nhỏ từ Type IXA, tăng thêm trữ lượng nhiên liệu để kéo dài tầm xa hoạt động.[3] Chúng có trọng lượng choán nước 1.051 t (1.034 tấn Anh) khi nổi và 1.178 t (1.159 tấn Anh) khi lặn.[6] Con tàu có chiều dài chung 76,50 m (251 ft 0 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 58,75 m (192 ft 9 in), mạn tàu rộng 6,51 m (21 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,70 m (15 ft 5 in).[6]
Chúng trang bị hai động cơ dieselMAN M 9 V 40/46 siêu tăng áp 9-xy lanh 4 thì, tổng công suất 4.400 PS (3.200 kW; 4.300 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,92 m (6,3 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 18,2 kn (33,7 km/h), và tầm hoạt động tối đa 12.000 nmi (22.000 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h).[6] Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điệnSiemens-Schuckert 2 GU 345/34 tổng công suất 1.000 PS (740 kW; 990 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,3 kn (13,5 km/h), và tầm hoạt động 64 nmi (119 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h).[6] Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[6]
Vũ khí trang bị có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và hai ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 22 quả ngư lôi 53,3 cm (21 in). Tàu ngầm Type IX trang bị một hải pháo 10,5 cm (4,1 in) SK C/32 với 110 quả đạn, một pháo phòng không 3,7 cm (1,5 in) SK C/30 và hai pháo phòng không 2 cm (0,79 in) C/30. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 44 thủy thủ.[6]
U-109 khởi hành từ Kiel vào ngày 6 tháng 5 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó tiến ra Bắc Hải, rồi băng qua khe GIUK giữa quần đảo Faroe và Iceland để hoạt động trong vùng biển Bắc Đại Tây Dương về phía Nam Greenland.[8] Nó tham gia bầy sóiWest vào ngày 13 tháng 5 ở vị trí về phía Đông Nam mũi Farewell, Greenland,[9] và chỉ hai ngày sau đó chiếc tàu ngầm kịp thời hủy bỏ một cuộc tấn công bằng ngư lôi sau khi nhận ra mục tiêu là một tàu trung lập.[10]
Đến ngày 19 tháng 5, U-109 bắt đầu theo dõi Đoàn tàu HX 126 vốn bị tàu ngầm U-94 phát hiện, và tìm thấy đoàn tàu vận tải đối phương vào ngày hôm sau. Tuy nhiên nó bị các tàu hộ tống đối phương dồn ép về phía đuôi đoàn tàu và tấn công bằng mìn sâu, nên chỉ có thể đánh chìm được một tàu buôn bị phân tán khỏi HX 126 ở vị trí 250 nmi (460 km) về phía Đông Nam mũi Farewell. Các nguồn trước đây cho rằng tàu buôn bị U-109 đánh chìm là chiếc Marconi,[11][12] nhưng các nghiên cứu gần đây xác định đó là tàu buôn Anh Harpagus 5.173 GRT.[13] Đợt phản công bằng mìn sâu của các tàu hộ tống đối phương đã gây hư hại đến mức U-109 phải kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về căn cứ.
Trên đường hướng về vùng bờ biển Đại Tây Dương của Pháp, chiếc tàu ngầm tìm cách tấn công các tàu chiến Anh vốn đã tham gia truy đuổithiết giáp hạmBismarck, vốn cũng đang tìm cách quay về Pháp sau khi bị hư hại trong Trận chiến eo biển Đan Mạch. Tuy nhiên U-109 đã không tìm thấy mục tiêu nào. Nó về đến cảng Lorient vào ngày 29 tháng 5.[5] Lorient trở thành căn cứ hoạt động của U-109 trong suốt thời gian còn lại của quãng đời hoạt động.[5]
Chuyến tuần tra thứ hai
1943
Chuyến tuần tra thứ tám
U-109 khởi hành từ cảng St. Nazaire vào ngày 3 tháng 3, 1943 cho chuyến tuần tra thứ tám, và hoạt động về phía Đông Bồ Đào Nha và chung quanh quần đảo Azores. Nó không tìm thấy mục tiêu nào, nên kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về cảng Lorient vào ngày 1 tháng 4.[14]
Chuyến tuần tra thứ chín - Bị mất
U-109 xuất phát từ cảng Lorient vào ngày 28 tháng 4 cho chuyến tuần tra thứ chín, cũng là chuyến cuối cùng, để hoạt động tại khu vực giữa Đại Tây Dương.[15] Đến ngày 4 tháng 5, một máy bay ném bomB-24 Liberator thuộc Liên đội 89 Không quân Hoàng gia Anh lúc đang trên đường đến điểm hẹn một đoàn tàu vận tải đã phát hiện chiếc tàu ngầm đang di chuyển trên mặt nước bằng radar ở vị trí về phía Đông Bắc quần đảo Azores. Sau khi bốn quả mìn sâu được thả xuống, U-109 chìm dần xuống biển, tại tọa độ 47°22′B22°40′T / 47,367°B 22,667°T / 47.367; -22.667.[1][2] Rõ ràng đã có đủ thời gian để thủy thủ đoàn có thể rời tàu bằng các cửa thoát hiểm, nhưng không thấy ai rời tàu, vì vậy toàn bộ 52 thành viên thủy thủ đoàn của đều đã tử trận.[2]
Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN1-55750-186-6.
Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN1-85780-072-9.
Liên kết ngoài
Helgason, Guðmundur. “The Type IXB boat U-109”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2024.
Hofmann, Markus. “U 109”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2024.