Bộ phim lấy bối cảnh những năm 80 của thế kỷ 20, thời điểm mà tình hình kinh tế và xã hội Việt Nam đang gặp nhiều thử thách.[1] Một làng quê vốn bằng lặng yên ả chợt xao động đổi thay, từ tâm tư con người đến nhịp sống thường ngày. Quyên, sau những ngày tháng vượt biên sống nơi đất khách quê người, nay lại trở về thăm lại ngôi làng xưa. Còn Ngữ thì vẫn tảo tần chăm sóc người em trai, âm thầm chờ đợi người chồng đi làm ăn xa. Và Nhâm, một chàng trai ở tuổi xuân xanh, nhạy cảm và lãng mạn, gắn bó với làng quê cả một thời tuổi thơ, cho đến khi nhập ngũ, vẫn không sao dứt được tình cảm da diết với đồng quê. Nhiều con người, nhiều cuộc đời, nhưng bằng những điểm tựa khác nhau, họ đều hướng về quê nhà, một lòng "thương nhớ đồng quê".[2]
Kịch bản của bộ phim do chính Đặng Nhật Minh thực hiện dựa trên truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.[11][12] Trong quá trình đi tìm bối cảnh quay phim, Đặng Nhật Minh đã phát hiện được hai ngôi làng Thụy Hương và Hương Gia thuộc Hà Nội. Hai ngôi làng với bối cảnh đậm chất thôn quê Việt Nam đã dần trở thành "làng phim trường" được nhiều đạo diễn yêu thích sau khi xuất hiện trong bộ phim này.[13]
Đây có thể xem là một bộ phim khiến đạo diễn Đặng Nhật Minh gặp khó khăn trong việc tìm diễn viên. Đầu tiên là vai Nhâm, một thanh niên nông thôn 17 tuổi, thích làm thơ và là người kể lại câu chuyện Thương nhớ đồng quê. Tìm được một người có thể truyền tải trọn vẹn vai này không hề dễ. Sau một thời gian dài không thể tìm được gương mặt phù hợp ở các trường điện ảnh, nữ đạo diễn Nhuệ Giang đã phát hiện được Tạ Ngọc Bảo ở một lớp học của đoàn chèo Hà Nội. Dù Tạ Ngọc Bảo bị giáo viên nhận xét là không giỏi về chèo, nhưng Đặng Nhật Minh vẫn quyết định cho anh thử vai Nhâm. Khả năng thể hiện của Tạ Ngọc Bảo trong bộ phim được đánh giá là cho thấy quyết định của ông là đúng.[14] Vai Nhâm đã trở thành vai diễn để đời của Tạ Ngọc Bảo, giúp anh được mời tham dự liên hoan phim quốc tế và nhận được lời mời đóng phim từ nhiều đạo diễn.[15]
Nhân vật thứ 2 khiến đoàn làm phim gặp khó khăn trong việc tìm diễn viên là vai nữ chính Ngữ. Đạo diễn Đặng Nhật Minh cho biết, đây là vai diễn mà ông tốn nhiều thời gian nhất để tìm kiếm diễn viên. Thậm chí đoàn làm phim phải quay trước một số cảnh không có nhân vật này để tiếp tục tìm. Nhân vật này yêu cầu diễn viên vừa biết diễn xuất, vừa biết làm những công việc đồng án. Cuối cùng, người được đạo diễn Đặng Nhật Minh chọn cho vai chính không phải là một diễn viên điện ảnh có tiếng mà là một nghệ sĩ quan họ, về sau là Nghệ sĩ nhân dân Thúy Hường.[16]
Năm 2005, cùng với một tác phẩm kinh điển khác của đạo diễn Đặng Nhật Minh là Bao giờ cho đến tháng Mười, Thương nhớ đồng quê đã được trình chiếu trong chương trình đặc biệt "Những đạo diễn bậc thầy tại châu Á" của Liên hoan phim quốc tế Gwangju lần 5.[22][23] Ngày 14 tháng 10 năm 2016, bộ phim lần đầu tiên xuất hiện ở Lausanne khi được công chiếu trong khuôn khổ Những ngày văn hóa Việt Nam tại Thụy Sĩ. Bộ phim tiếp tục được đánh giá cao và nhận được nhiều lời khen từ khán giả Thụy Sĩ.[24] Tháng 7 năm 2018, bộ phim được đưa vào chương trình chiếu phim mùa hè của IDECAF bao gồm các tác phẩm chọn lọc của điện ảnh Việt Nam và Pháp.[25]
Đánh giá và đón nhận
Thương nhớ đồng quê được xem là một bộ phim mang tính biểu tượng về hình ảnh làng quê Việt Nam.[26] Từ những năm 1990, sự chênh lệch giữa thành phố và làng quê đã bắt đầu rõ ràng.[21] Bộ phim đã miêu tả một cách rõ nét tình thế khó xử của làng quê thời bấy giờ: trai tráng bỏ lên thành thị, bỏ làng lại cho phụ nữ, trẻ nhỏ và những người già.[27] Hình ảnh ngôi làng vừa thân thuộc nhưng hiện lên một cách xơ xác và tiêu điều khi con người dần rời bỏ đồng quê mà hướng về nơi phố thị được cho là những hình ảnh ám ảnh người xem nhất của bộ phim.[28] Bộ phim không chỉ là nỗi niềm với quê hương mà còn là tình cảm trái ngang giữa những người số phận khác nhau. Tình cảm đan xen tình dục đươc chế tác một cách nhạy cảm và chính xác khiến cho bộ phim được đánh giá là một viên ngọc quý của điện ảnh Việt Nam.[18]
Bộ phim đã xuất hiện tại hơn 60 liên hoan phim, và thu về nhiều giải thưởng.[29] Tính đến thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, đây được xem là bộ phim Việt Nam đạt kỷ lục về số lần được mời tham dự các liên hoan phim quốc tế.[30][31] Tại Liên hoan phim Việt Nam năm 1995, bộ phim đã mang về cho Đặng Nhật Minh giải Đạo diễn xuất sắc nhất nhưng bản thân nó lại không được bất kỳ giải Bông sen nào. Dù vậy, đây vẫn là một tác phẩm mang tính văn hóa cao và là bộ phim quan trọng trong sự nghiệp của ông.[32]
^Kim Seong-hyeon, 김성현기자 (12 tháng 8 năm 2020). “광주국제영화제 '5번째 빛잔치'” [Liên hoan phim quốc tế Gwangju 'Lễ hội ánh sáng lần thứ 5']. Triều Tiên nhật báo (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2022.
Tetsuj, Ito (tháng 12 năm 2012). “「平等 」 の な か の 貧 困 : ベ トナム ・フ エ の 水 上 生 活の 家族た ち” [Poverty in the Context of Equality: Families Living on the Water in Hue, Vietnam.]. Japanese Journal of Developmental Psychology (bằng tiếng Nhật). 23 (4): 375–383.