Giả sử f là một hàm giải tích được xác định trên tập con mở không rỗng U của mặt phẳng phức Nếu V là tập con mở lớn hơn của chứa U và F là một hàm giải tích được xác định trên V sao cho
thì F được gọi là một thác triển giải tích của f. Nói cách khác, thu hẹp của F về U là hàm f ban đầu.
Thác triển giải tích là duy nhất theo nghĩa sau: nếu V là miền xác định liên thông của hai hàm giải tích F1 và F2 sao cho U được chứa trong V và với mọi z trong U
Bán kính hội tụ của chuỗi lũy thừa này là 1. Đó là, xác định và giải tích trên tập mở có biên . Lưu ý rằng chuỗi lũy thừa phân kỳ tại .
Ta tìm một chuỗi số mới có tâm tại :
Ta sẽ tìm và xác định xem chuỗi mới này có hội tụ trong một tập mở không phải là một tập con của hay không. Nếu ta thành công, ta đã thác triển đến một miền lớn hơn .
Ta có
Tức là
Chuỗi mới này có bán kính hội tụ và Nếu ta chọn với , thì không phải là một tập hợp con của và thực ra thì có diện tích lớn hơn . Hình vẽ minh họa cho
Ta có thể tiếp tục quá trình này. Trong trường hợp cụ thể này, có thể được thác triển giải tích đến mặt phẳng phức trừ một điểm
Mầm
Chuỗi lũy thừa được khái quát bằng khái niệm mầm. Lý thuyết chung thác triển giải tích và khái quát hóa của nó được gọi là lý thuyết bó. Xét
Ta nói rằng véc-tơ
là mầm của f. Nền của g là z0, gốc của g là (α0, α1, α2,...) và đỉnhg1 của g là α0. Đỉnh của g là giá trị của f tại z0.
Tập hợp các mầm tạo thành một không gian mầm .
Tô-pô của không gian mầm
Ta có thể định nghĩa một cấu trúc tô pô trên . Đặt r > 0 và xét
Các tập hợp Ur(g), với r > 0 và xác định một cơ sở của các tập mở cho một cấu trúc tô-pô trên .
Một thành phần liên thông của được gọi là một bó. Lưu ý rằng tồn tại các bản đồ với r là bán kính hội tụ của g. Tập hợp các bản đồ như vậy tạo thành một at-lat cho , vì thế là một mặt Riemann. đôi khi được gọi là hàm giải tích phổ quát. Một thành phần liên thông của nó cũng chính là không gian étalé của bó các hàm giải tích trên một miền của mặt phẳng phức.