Thiên Hậu Thánh Mẫu (chữ Hán: 天后聖母) hay bà Thiên Hậu, còn gọi là Ma Tổ (媽祖), Mẫu Tổ (母祖), hay là Thiên Thượng Thánh Mẫu (天上聖母) hoặc Thiên Hậu Nguyên quân (天后元君); là một vị thần quan trọng trong tín ngưỡng của người Trung Hoa và người Việt gốc Hoa.
Bà được xem như vị thần bảo trợ của ngư phủ và người đi biển, được tôn kính đặc biệt cả trong Phật giáo và Đạo giáo ở các quốc gia Đông Á, và nhất là tại Đài Loan. Ngày tưởng niệm bà là ngày 23 tháng 3âm lịch hằng năm.
Sự tích
Theo học giả Vương Hồng Sển thì bà có tên là Lâm Mặc Nương, người gốc ở đảo Mi Châu, Bồ Dương, Phúc Kiến. Bà sinh ngày 23 tháng 3 năm Giáp Thân (1044), đời vua Tống Nhân Tông. Mẹ của bà phải mang thai 14 tháng mới hạ sinh. Sau đó, 8 tuổi bà biết đọc, 11 tuổi bà tu theo Phật giáo. 13 tuổi, bà thọ lãnh thiên thơ: thần Võ Y xuống cho một bộ "Nguyên vị bí quyết" và bà tìm được dưới giếng lạn một xấp cổ thư khác, rồi coi theo đó mà luyện tập đắc đạo, bà còn xem thiên văn trên biển cho ngư dân đảo Mi Châu.
Một lần, cha bà tên Lâm Nguyện ngồi thuyền cùng hai anh trai (anh của bà), chở muối đi bán tỉnh Giang Tây, giữa đường thuyền lâm bão lớn... Lúc đó bà đang ngồi dệt vải cạnh mẹ và trong lúc ngủ đã xuất thần để đi cứu cha và hai anh. Bà dùng răng cắn được chéo áo của cha, hai tay nắm hai anh, giữa lúc đó mẹ gọi bà thức giấc, bà vừa hở môi trả lời thì sóng cuốn cha đi mất dạng, chỉ cứu được hai anh. Từ đó, mỗi khi thuyền bè ngoài biển bị nạn người ta đều gọi vái đến bà. Năm Canh Dần (1110) nhà Tống sắc phong cho bà là "Thiên Hậu Thánh Mẫu".[1]
Theo những tài liệu khác cho biết bà sinh năm 960 tại đảo Mi Châu, huyện Bồ Điền, phủ Hưng Hóa, tỉnh Phúc Kiến; là con thứ 7 của ngư phủ Lâm Nguyện [2], còn gọi là Lâm Thiện Nhân. Ông nội bà từng là Tổng đốc ở Phúc Kiến. Khi sinh ra bà không khóc không la, nên còn gọi là Mặc Nương ("Cô gái im lặng"). Nổi tiếng bơi giỏi từ năm 15 tuổi. Năm 16 tuổi, Lâm Mặc Nương lượm được 2 miếng "Đồng phù" (bùa vẽ trên miếng đồng) ở dưới giếng nước và tập luyện theo, nên trở thành có phép lạ và nổi danh từ đó qua những sự việc được cứu người vượt biển và thu phục và cảm hóa các vị ác thần (như 2 hung thần Thiên lý nhãn và Thuận phong nhĩ) được kể lại[2]. Có 2 thuyết khác nhau về năm mất của bà, thuyết đầu cho rằng bà mất năm 987 khi 28 tuổi, lúc bà lên núi và bay về trời, thuyết khác cho biết bà mất năm 16 tuổi khi bơi ra biển để tìm cha [3]
Sau khi bà mất được dân làng nhớ ơn, suy tôn là "Thông hiền linh nữ" và lập đền thờ. Triều đình nhà Tống sắc phong cho bà là "Thần nữ", "Nam Hải thần nữ", đời Tống Cao Tông phong bà là "Sùng Linh Huệ Chiêu Ứng Phu nhân". Đời Nguyên Thế Tổ phong là "Hộ Quốc Linh Trước Thiên Phi" [2]. Sau gia phong "Thiên Hậu" vào đời Khang Hy (nhà Thanh).
Thờ phụng
Bắt đầu từ Phúc Kiến, sự linh ứng của bà Thiên Hậu được lan truyền sang khu vực duyên hải lân cận như Chiết Giang, Quảng Đông, Đài Loan và từ đó đến tất cả các khu vực ven biển của Trung Quốc đại lục. Với sự di cư của người Trung Quốc trong khoảng thời gian từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20, sự thờ phụng tiếp tục lan truyền sang Việt Nam, Nhật Bản và các nước Châu Á khác; bà Thiên Hậu được xem như hộ thần của các vùng biển, vì vậy là một trong những vị thần được thờ phượng rộng rãi nhất trong cộng đồng người Hoa hải ngoại, vốn ra đi bằng đường biển. Tổng cộng, có hơn 1.500 ngôi miếu Thiên Hậu ở 26 quốc gia trên thế giới.
Tại Việt Nam, miếu thờ bà xuất hiện tại những khu đô thị có sự xuất hiện của người Hoa di cư đến trong khoản thời gian từ lúc Nhà Minh sụp đổ cho đến trước 1975. Bà Thiên Hậu là một trong những vị thần được thờ cúng rộng rãi nhất, bên cạnh Quan Thánh, Bắc Đế hay Quan Âm. Ngoài tên gọi phổ biến nhất là Thiên Hậu Miếu, các cơ sở thờ tự Bà còn được gọi là Thiên Hậu Cung, Miễu A Má, Pò Miễu hay Chùa Bà. Dưới đây là danh sách một vài ngôi miếu mà Bà Thiên Hậu là vị thần được thờ phượng ở gian chính:
Quảng Đông Hội Quán, tọa lạc ở vị trí ngày nay là chợ Tam Bạc, phường Phan Bội Châu, quận Hồng Bàng, Hải Phòng.
Quảng Đông Hội Quán, nay trưng dụng làm Trường mầm non Trần Phú ở 139 Bach Đằng, phường Lê Thanh Nghị, TP. Hải Dương, Hải Dương.
Thiên Hậu Cung (Đền Nhà Bà), đường Nguyễn Công Trứ, phường Hồng Sơn, Vinh, Nghệ An. Miếu bị hư hại và bỏ hoang trong bối cảnh người Hoa rời Vinh di cư lên Hà Nội tránh chiến tranh vào thập niên 60 thế kỉ 20.
Hải Bình Cung, đ. Hai Bà Trưng, Minh An, Hội An, Quảng Nam. Ngày nay, chỉ còn sót lại cổng miếu, nằm cạnh cổng Cẩm Hà Cung (thờ Bảo Sanh Đại Đế) và được người địa phương gọi chung là Cổng chùa bà Mụ.
Thất Phủ Thiên Hậu Cung Chợ Lớn, hiện hoang phế, nằm bên trong Trung tâm Thể dục thể thao Quận 5, 756 Nguyễn Trãi, Quận 5, TP.HCM.
Phú Tân Hội, nằm trong khuôn viên Cà Phê Thùy Linh, 126 Ngô Quyền, Lái Thiêu, Thuận An, Bình Dương.
Minh Hương Hội Quán Cần Thơ, nằm ở ngã ba đường Quang Trung và Nguyễn Thị Minh Khai, quận Ninh Kiều, Cần Thơ; bị dỡ bỏ vào năm 1997 để xây cầu Quang Trung.
Tuệ Thành Công Sở Ba Xuyên, nay ở vị trí 95 Hai Bà Trưng, phường 1, TP. Sóc Trăng, Sóc Trăng.
Tên thông dụng
Ma Tổ (chữ Hán: 媽祖, Mazu) có nghĩa là "mẹ, tổ tiên"), hay là Ma Tổ Bà (chữ Hán: 媽祖婆, Mazu-po), phiên âm như Matsu trong Wade-Giles
^Sự tích Thiên Hậu. Theo nhà nghiên cứu An Chi, thì "có thể là trong lời kể của nhiều người khác sẽ còn có những chỗ dị đồng khác nữa. Đây không phải là chuyện lạ: khi mà cuộc đời của một nhân vật đã đi vào truyền thuyết, nó có thể có những dị bản".
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Thiên Hậu Thánh mẫu.