Bài này không có nguồn tham khảo nào. Mời bạn giúp cải thiện bài bằng cách bổ sung các nguồn tham khảo đáng tin cậy. Các nội dung không nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngôn ngữ khác thì bạn có thể chép nguồn tham khảo bên đó sang đây.(tháng 2 năm 2023)
Lịch sử của Su-22 bắt đầu như một nỗ lực để cải tiến máy bay tiêm kích bomSu-7. Dù Su-7 có một số ưu điểm, bao gồm một bộ khung vững chắc và tốc độ bay thấp hoàn hảo, nhưng cánh của nó có những điểm méo mó nhỏ và nó có tốc độ cất - hạ cánh lớn do đó đòi hỏi phải có đường băng dài.
Những nghiên cứu của Viện Thủy khí động học Trung ương Xô viết (TsAGI) đã đề xuất một hình dạng cánh cụp cánh xòe. Cánh có hình dạng thay đổi được, có thể xòe ra để nâng cao độ ổn định ở độ cao thấp và hiệu suất tuần tra cũng như hỗ trợ việc cất - hạ cánh, hay cụp lại để bay với tốc độ cao hơn. Vài mẫu cánh VG planform đã được phát triển cho Su-7 (và máy bay ném bomTupolev Tu-22), hình dạng được chọn cho phép chỉ phần ở phía ngoài chuyển động, để lại một đoạn cánh phía trong cố định. Ngoài việc làm cho máy bay dễ dàng tương thích với cánh mới, thân máy bay cũng được thiết kế sửa chữa cho phù hợp, bộ càng đáp được chuyển vào những khoang nhỏ trong cánh thay vì trong thân như trước kia, cho phép mở rộng giá treo vũ khí dưới thân, điểm treo vũ khí dưới cánh được đặt dưới phần cánh cố định.
Một sửa đổi trên Su-7 với thiết kế cánh mới đã được xây dựng và nó bay lần đầu tiên vào 2 tháng 8 năm 1966 với tên gọi là Su-7IG (Изменяемой Геометрий - Izmenyaemoy Geometriy, "có thể thay đổi được hình dạng") (hay S-22I). Cánh điều khiển bằng tay, nó có thể quay góc 28°, 45°, và 63°. Những kết quả rất khả quan, nó có thể trình diễn bay tốc độ thấp, khoảng cách cất cánh và hạ cánh giảm xuống một nửa, và đặc biệt là nó có thể mang được nhiều loại vũ khí hạng nặng.
Những quan sát viên của Phương Tây đã có những ý niệm mơ hồ về loại máy bay mới đã bay thử tại sân bay Domodedovo, Moskva vào tháng 7 năm 1967, họ được xem như loại máy bay đó là Su-7IG (tên ký hiệu của NATO 'Fitter-B') chỉ bay thử nghiệm, và họ đã rất ngạc nhiên khi các đơn vị không quân của Liên Xô trang bị loại máy bay đó vào năm 1972.
Loại máy bay mới, được biết đến trong các phòng thiết kế là S-32, đã có tên gọi chính thức là Su-17. Trong các hoạt động tại các đơn vị nó thường được gọi với cái tên "Strizh", tiếng Nga cho "Martlet - Chim nhạn không chân". Phiên bản sản xuất chính đầu tiên là Su-17M, với động cơ khỏe hơn và hệ thống điện tử mới, như thùng nhiên liệu thêm ở trên lưng. Một phiên bản xuất khẩu "làm nhẹ bớt" đã được thiết kế với tên gọi Su-20, với các giảm bớt tiêu chuẩn trang bị. Cả ba phiên bản đầu tiên đều được NATO gán tên là Fitter-C.
Su-17 được thiết kế chủ yếu cho nhiệm vụ ném bom chiến thuật tấn công các mục tiêu mặt đất. Nó cũng có thể làm nhiệm vụ thứ 2 - tiêm kích phòng không với khả năng mang 2 tên lửa không đối không tầm nhiệt R-60 hoặc K-13, tuy nhiên nhiệm vụ này chỉ là phụ: kết cấu cánh đặc biệt khiến Su-17 không có khả năng cơ động cao - tính sống còn trong không chiến. Hơn thế, việc không đuợc trang bị radar cũng khiến cho Su-17 không có khả năng phát hiện mục tiêu trên không ngoài tầm nhìn của phi công.
SukhoiOKB sau này đã phát triển một danh sách dài những phiên bản có tính năng ưu việt. Phiên bản dành cho Không quân Liên Xô có tên gọi là Su-17, phiên bản xuất khẩu tương đương có tên gọi là Su-22. Khoảng 3.000 chiếc Su-17 và các phiên bản của nó đã được sản xuất từ giữa năm 1966 đến khi kết thúc sản xuất vào năm 1991, thời điểm mà Liên Xô tan rã.
Phiên bản cuối cùng mà Liên Xô chế tạo là Su-22M4, có thể mang được 2 tên lửa không đối đấtKh-29 dùng để tấn công các mục tiêu mặt đất (gồm kho tàng, bến bãi, nhà xưởng, cầu cống, sân bay) hoặc tàu chiến trên biển. Kh-29 được trang bị đầu đạn nặng 320 kg, trong đó có 116 kg chất nổ mạnh. Tên lửa sử dụng động cơ nhiên liệu rắn cho phép đạt tốc độ tối đa 2.900 km/h, tầm bắn đạt 10–30 km tùy từng biến thể. Kh-29 có khả năng gây hư hại nặng tàu chiến có lượng giãn nước lên tới 10.000 tấn. Ngoài tên lửa Kh-29, Su-22M4 cũng có thể mang tên lửa chống radarKh-28 có tầm bắn lên đến 110 km, đầu đạn 140 kg, sử dụng phương pháp dẫn bắt kết hợp giữa dẫn hướng quán tính và radar thụ động pha cuối để tiêu diệt các trạm radar.
Chiến đấu
Liên Xô đã sử dụng rộng rãi Su-17 trong Chiến tranh Liên Xô - Afghanistan (1979 - 1989), với 100 - 150 chiếc được huy động trong cuộc chiến đó. Su-17 đã hoạt động liên tục trong điều kiện khắc nghiệt của vùng sa mạc, với những sân bay nằm ở độ cao lớn, nhiệt độ cao, nhiều bụi cát... Mức độ sẵn sàng chiến đấu của Su-17 vượt qua cả máy bay cường kíchSu-25 và các trực thăng vũ trang như Mi-24. Vào mùa hè, mật độ xuất kích của Su-17 tăng gấp rưỡi. Một số chiếc đã bị bắn hạ bởi tên lửa đất đối khôngFIM-92 Stinger của Mỹ. 3 chiếc Su-17 đã bị bắn hạ bởi những chiếc F-16 của Pakistan, khi những chiếc máy bay Liên Xô bay lạc vào không phận Pakistan.
Do được thiết kế cho nhiệm vụ tấn công mặt đất nên khả năng cơ động của Su-17 khá kém, dù phiên bản cải tiến Su-7B đã có những thay đổi. Nó khá lớn, gây nhiều tiếng ồn và tạo nhiều khói. Dù được thiết kế với nhiệm vụ chính là tấn công mặt đất, nhưng nó lại phải tham gia không chiến tương đối nhiều (bởi phần lớn các nước sử dụng nó là những nước nhỏ, không có nhiều máy bay kiểu khác để lựa chọn), và tất nhiên nó dễ bị đánh bại bởi máy bay tiêm kích đối phương trong tình huống đó. Ngoài ra, khả năng bảo trì thấp, chiến thuật kém của các nước này cũng dẫn đến nhiều tổn thất không đáng có đối với Su-17.
Ở Syria, các máy bay Su-20 và Su-22 (các phiên bản xuất khẩu của Su-17) của nước này đã được sử dụng trong cuộc chiến Yom Kippur năm 1973 và chiến tranh Lebanon1982, nhiều chiếc bị Không quân Isarel bắn hạ.
Tại Angola, trong giai đoạn 1987 - 1994, các máy bay Su-22 đã tham chiến không kích phiến quân UNITA và một số đã bị bắn hạ.
Không quân Yemen đã bị mất một số Su-22 vì lý do kĩ thuật và hỏa lực phòng không khi sử dụng các máy bay Su-22 để chống lại các lực lượng nổi dậy ở nước này.
Tại Nam Mỹ, Peru là nước duy nhất có trang bị máy bay Su-22. Ngày 24/4/1992, một chiếc Su-22 đã tấn công máy bay vận tải quân sựLockheed C-130H Hercules của Mỹ ở phía tây Lima, làm 6 trong số 14 thành viên phi hành đoàn bị thương vong. Sự việc này đã gây ra những sự cố chính trị - ngoại giao nghiêm trọng giữa hai nước.
Tiếp đó, vào năm 1995, chiến tranh giữa Peru và Ecuador bùng nổ. Những chiếc Su-22 đã thực hiện khoảng 45 phi vụ chiến đấu. Ngày 10/2/1995, hai chiếc tiêm kíchDassault Mirage F1JA của Ecuador đã bắn hạ hai chiếc Su-22 của Peru tại vùng thung lũng Cenepa. Sau đó, Peru tổ chức phản công gồm 20 chiếc Su-22 ở El Pato, nên phía Ecuador đã dừng việc tấn công các cảng biển của nước này.
Không quân Nga đã cho những chiếc Su-17 về hưu, nhưng còn khoảng 300 chiếc vẫn đang hoạt động trong biên chế của không quân các nước khác trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Không quân Nhân dân Việt Nam bắt đầu tiếp nhận những chiếc Su-22M/UM từ Liên Xô, một biến thể cải tiến dành cho xuất khẩu của Su-17, từ năm 1979 để dần thay thế cho các loại máy bay chiến đấu MiG-17, MiG-19 đã lạc hậu. Su-22 là chiến đấu cơ phản lực đầu tiên của Việt Nam bay ra được tới quần đảo Trường Sa. Sáng ngày 10/2/1988, phi công Vũ Xuân Cương đã thành công chuyến bay nhiệm vụ đầu tiên trên cường kích Su-22M (số hiệu 5815) từ Phan Rang ra tuần tiễu Trường Sa.
Sau hải chiến Trường Sa, ngày 30/3/1988, Việt Nam quyết định tăng cường bay huấn luyện trên biển xa cho phi đội Su-22M nhằm nâng cao khả năng tác chiến trên biển. Ngày 24/4, 3 chiếc Su-22M được điều từ Thọ Xuân (Thanh Hóa) vào Phan Rang. Cuối tháng 6, có thêm 10 chiếc Su-22M nữa vào Phan Rang. Từ Phan Rang bay ra Trường Sa là gần 600 km. Thời điểm đó, phương tiện dẫn đường của Việt Nam chỉ có bán kính 300 km nên sau đó phi công phải tự bay 300 km nữa mà không có dẫn đường. Giữa biển cả, việc xác định vị trí là cực kỳ khó khăn, không có địa tiêu nào để phi công dựa vào phán đoán tọa độ, thời tiết lại hay thay đổi đột ngột. Bán kính tác chiến của Su-22M là 630 km, chỉ vừa đủ để tới Trường Sa, vì vậy nếu sai lệch về hướng bay thì không còn đủ nhiên liệu để về đến đất liền. Các đơn vị Su-22M phải khắc phục rất nhiều khó khăn và cả nguy hiểm để huấn luyện cấp tốc việc bay ra đảo Trường Sa[3]
Su-17: Được chế tạo lại với số lượng nhỏ (khoảng 24 chiếc) vào năm 1969, được dựa trên mẫu Su-7U huấn luyện 2 chỗ, với phần lưng phình lên cho các bình chứa nhiên liệu (4.550 lít). Nó giữ lại động cơ Lyulka AL-7F-1 của Su-7 (68.64 kN/15.432 lbf lực đẩy chính hay 99.12 kN/22.282 lbf khi đốt nhiên liệu lần 2).
Su-17M: Phiên bản sản xuất chính, bắt đầu sản xuất vào năm 1971, gồm động cơ Lyulka AL-21F-3, 2 chỗ, hệ thống dẫn đường/tấn công mới (giữ lại radar khoảng cách SRD-5M, dù hãm ở đuôi của Su-7BMK). Có vận tốc cực đại là Mach 2.1, phiên bản xuất khẩu tương đương có tên gọi là Su-20.
Su-17R: Một số nhỏ máy bay Su-17M trang bị hệ thống trinh sát. Phiên bản xuất khẩu tương đương có tên gọi là Su-20R.
Su-17M2D ('Fitter-D'): Giới thiệu trong năm 1974 với phần mũi mở rộng 38 cm, loại bỏ radar khoảng cách để cải thiện tầm nhìn của phi công. Phần mũi chứa hệ thống tìm đường laser/dò tìm mục tiêu (LRMTS), radar dẫn đường DISS-7 Doppler. Phiên bản xuất khẩu có tên gọi Su-17M2K ('Fitter-F'), loại bỏ LRMTS, thay thế động cơ cũ bằng động cơ Tumansky/Khatchaturov R-29BS-300 (tương tự như trên tiêm kíchcánh cụp cánh xòeMiG-23) công suất sau khi đốt nhiên liệu lần 2 là 112.76 kN (25.348 lbf).
Su-17UM2D ('Fitter-E'): Phiên bản huấn luyện 2 chỗ đầu tiên, dựa trên Su-17M2D, nhưng có một số điểm khác biệt, thân máy bay dài hơn do kính chắn gió di chuyển lên phía trước, có cùng chiều dài như Su-17M. Khả năng mang nhiên liệu bên trong bị giảm bớt và pháo cũng bị loại bỏ, nhưng có hệ thống điện tử và vũ khí đầy đủ. Phiên bản xuất khẩu, sử dụng động cơ R-29BS-300 giống như Su-17M2K, có tên gọi là Su-17UM2K.
Su-17UM3 ('Fitter-G'): Phiên bản huấn luyện được nâng cao lên, cánh đuôi thẳng đứng và cánh bụng có thể dời đi được. Không giống đa số những model sau của Fitter, nó giữ lại đầu vào không khí, cho phép máy bay đạt được vận tốc Mach 2.1. Hệ thống điện tử không chiến bị loại bỏ cho hệ thống mới cho phép huấn luyện viên mô phỏng những cuộc tấn công và tình trạng khẩn cấp khi đang bay. Phiên bản huấn luyện có tên gọi Su-22UM3K, một số sử dụng động cơ Lyulka, còn số khác dùng động cơ Tumansky/Khatchaturov.
Su-17M3 ('Fitter-H'): Phiên bản một chỗ ngồi dựa trên Su-17UM2D, nhưng chỉ với buồng lái đơn, giữ lại 2 pháo. Radar Doppler di chuyển vào trong. Giá treo tên lửa K-13 (AA-2 'Atoll') hoặc R-60 (AA-8 'Aphid') được thêm vào giữa 2 giá treo mỗi cánh. Khả năng chứa nhiên liệu bên trong gia tăng với 4.850 lít. Phiên bản xuất khẩu, giống phần lớn ngoại trừ sử dụng động cơ R-29BS-300, có tên gọi Su-22M3K ('Fitter-J').
Su-17M4 ('Fitter-K'): Phiên bản sản xuất cuối cùng, sản xuất bắt đầu vào năm 1980, với việc nâng cấp đáng kể hệ thống điện tử, gồm hệ thống dẫn đường RSDN (giống với LORAN), dẫn đường tín hiệu, dẫn đường quán tính, hệ thống đo khoảng cách laser mạnh hơn, sóng định vị vô tuyến, và hệ thống radar cảnh báo SPO-15LE ('Sirena'). Thêm những khe nạp không khí bổ sung (gồm bộ nạp không khí ở cánh) để có thêm luồng không khí làm mát động cơ. 'Fitter-K' trang bị tên lửa tự dẫn truyền hình và vũ khí chùm tên lửa chống radarBA-58 Vyuga. Tùy chọn thêm hệ thống phòng thủ gồm các chùm kim loại gây nhiễu, pháo sáng gây nhiễu. Phiên bản xuất khẩu có tên gọi Su-22M4.
Su-22M5: phiên bản nâng cấp trọn gói của Nga - Pháp liên doanh cho các máy bay hiện nay, với buồng lái hiện đại, HOTAS, hệ thống điện tử cải tiến. Loại bỏ hệ thống đo khoảng cách bằng laser, thay vào đó là radarPhazotron/Thomson-CSF 'Phathom'.