Sóng cắt chia tách, còn được gọi là lưỡng chiếtđịa chấn, là hiện tượng xảy ra khi sóng cắtphân cực vào một môi trường dị hướng. Tia sóng cắt chia tách thành hai sóng cắt phân cực. Sóng cắt chia tách thường được dùng như một công cụ để kiểm tra tính dị hướng của một khu vực được quan tâm. Các phép đo này phản ánh đúng mức độ dị hướng và giúp hiểu rõ hơn về sự liên kết tinh thể.[1]
Chúng ta có thể nghĩ sự dị hướng của một vùng cụ thể là một hộp đen và các phép đo sóng cắt chia tách là một cách nhìn xem cái gì ở trong hộp.
Cơ chế vật lý
Sự chênh lệch trong vận tốc di chuyển của hai sóng cắt có thể được giải thích bằng cách so sánh sự phân cực của chúng với hướng dị tính chủ yếu trong khu vực. Sự tương tác giữa những hạt nhỏ mà tạo nên vật rắn và chất lỏng có thể được sử dụng như so sánh tương tự cho cách sóng di chuyển qua một môi trường. Chất rắn liên kết rất chặt chẽ các hạt nên truyền năng lượng rất nhanh chóng và hiệu quả. Trong chất lỏng, các hạt được gắn kết lỏng lẻo hơn nhiều và thường tốn nhiều thời gian để năng lượng được truyền đi. Bởi vì các hạt phải di chuyển xa hơn để truyền năng lượng cho nhau. Nếu một sóng cắt bị phân cực song song với các vết nứt trong môi trường đẳng hướng, thì nó có thể trông như sóng tối màu xanh trong hình. Sóng này tác động vào hạt giống như năng lượng được chuyển qua một chất rắn. Nó sẽ có một vận tốc cao vì sự gần nhau của các hạt. Nếu có một sóng cắt đó bị phân cực vuông góc với vết nước bị lấp đền bởi chất lỏng hoặc tinh thể olivine nhỏ dài có trong môi trường, thì nó sẽ tác động vào các hạt giống như ở chất lỏng hoặc khí. Năng lượng này sẽ được truyền chậm hơn qua môi trường và vận tốc chậm hơn so với sóng cắt đầu tiên.
Thời gian chậm giữa sự đến của các sóng cắt phụ thuộc vào vài yếu tố bao gồm độ dị hướng và khoảng cách sóng di chuyển tới những trạm thu. Môi trường có các vết nức rộng hơn, lớn hơn sẽ chậm hơn một môi trường với các vết nước nhỏ hoặc thậm chí là vết nứt đóng. Sóng cắt chia tách sẽ tiếp tục xảy ra cho đến khi vận tốc sóng cắt dị hướng về đến 5,5%.[2]
^S. Crampin; S. Peacock (2008). “A review of the current understanding of seismic shear-wave splitting in the Earth's crust and common fallacies in interpretation”. Wave Motion. 45 (6): 675–722. doi:10.1016/j.wavemoti.2008.01.003.
Crampin, S.; Lovell, J.H. (1991). “A decade of shear-wave splitting in the Earth's crust: what does it mean? what use can we make of it? and what should we do next?”. Geophysics Journal International. 107: 387–407. doi:10.1111/j.1365-246x.1991.tb01401.x.
Crampin, S.; Peacock, S. (2005). “A review of shear-wave splitting in the compliant crack-critical anisotropic Earth”. Wave Motion. 41: 59–77. doi:10.1016/j.wavemoti.2004.05.006.
Long, M. D.; Hoop, M. V. (2008). “Wave-equation shear wave splitting tomography”. Geophysics Journal International. 172: 311–330. doi:10.1111/j.1365-246x.2007.03632.x.
Pastori, M.; Piccinini, D.; Margheriti, L.; Improta, L.; Valoroso, L.; Chiaraluce, L.; Chiarabba, C. (2009). “Stress aligned cracks in the upper crust of the Val d'Agri region as revealed by shear wave splitting”. Geophysical Journal International. 179 (1): 601–614. doi:10.1111/j.1365-246x.2009.04302.x.
Piccinini, D; Pastori, M.; Margheriti, L. “ANISOMAT+: An automatic tool to retrieve seismic anisotropy from local earthquakes”. Computers & Geosciences. 56: 62–68. doi:10.1016/j.cageo.2013.01.012.
Savage, M. K.; February (1999). “Seismic anisotropy and mantle deformation: What have we learned from shear wave splitting?”. Reviews of Geophysics. 37: 65–106. Bibcode:1999RvGeo..37...65S. doi:10.1029/98rg02075.
Ucisik, N.; Hanka, W.; Dahl-Jensen, T.; Mosegaard, K.; Priestley, K. (2008). “Variations of shear-wave splitting in Greenland: Mantle anisotropy and possible impact of the Iceland plume”. Tectonophysics. 462: 137–148. doi:10.1016/j.tecto.2007.11.074.