Việt Nam hiện nay, dưới chính thểCộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến nay đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 trong 200 quốc gia trên toàn thế giới; thiết lập khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với 30 đối tác chiến lược và toàn diện, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam cùng các nước nâng tầm hợp tác vì lợi ích của mỗi nước và vì hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.[1]
Về chủ trương, theo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã nêu lên chính sách đối ngoại: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh[2].
Giai đoạn 1945–1946: Là thời kỳ cực kỳ khó khăn của đất nước nói chung và ngoại giao Việt Nam nói riêng. Nhà nước độc lập non trẻ chưa được nước nào công nhận. Chính sách ngoại giao của Việt Nam lúc đó đã hòa hoãn với Quốc dân Đảng và quân đội Tưởng Giới Thạch, tập trung đánh Pháp ở miền Nam, rồi hòa với Pháp bằng việc ký kết Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946.
Giai đoạn 1954–1975: Ngoại giao đã "tấn công" hậu phương quốc tế của Mỹ, mở rộng hậu phương quốc tế của Việt Nam, hình thành phong trào phản chiến trên toàn thế giới
Đồng thời, ngoại giao đã phối hợp với chiến trường, đấu tranh chính trị, tiến hành đàm phán và ký kết Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam (27 tháng 1 năm 1973). Hiệp định Paris là thắng lợi của ngoại giao Việt Nam, buộc Mỹ và các nước liên quan rút quân khỏi Việt Nam, chấm dứt chiến tranh, tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam. Trong quá trình đàm phán Hiệp định này, ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã phối hợp nhịp nhàng, theo phương châm "Tuy hai mà một, tuy một mà hai", "Vừa đánh, vừa đàm".
Thời kỳ bao cấp
Giai đoạn 1975–1986: Đây là thời kỳ ngoại giao khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh. Những năm đầu sau chiến tranh, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hàng chục nước, nhất là các nước xã hội chủ nghĩa, tranh thủ được sự giúp đỡ về vật chất của nhiều quốc gia, các tổ chức quốc tế nhằm khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh. Việt Nam nhanh chóng gia nhập Liên Hợp Quốc (20 tháng 9 năm 1977).
Cuộc chiến tranh với Trung Quốc và Khmer Đỏ đã dẫn đến việc Trung Quốc, phương Tây và ASEAN bao vây, cô lập, cấm vận Việt Nam hơn 1 thập kỷ, gây rất nhiều khó khăn cho việc khôi phục và phát triển kinh tế.
Thời kỳ Đổi mới
Giai đoạn 1986 đến nay: Với Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI (tháng 12 năm 1986), Việt Nam đã khởi đầu công cuộc thay đổi toàn diện đất nước, trong đó có đường lối, chính sách đối ngoại và hoạt động ngoại giao.
Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (tháng 5 năm 1988) đã tạo ra bước ngoặt trong đường lối chính sách đối ngoại của Việt Nam. Các Đại hội tiếp theo từ Đại hội VII (1991), Đại hội VIII (1996), Đại hội IX (2001) đến Đại hội X (2006) đã quyết định đưòng lối đối ngoại của Việt Nam là độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực[4]
Đại hội XI (2011) đã phát triển và bổ sung nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế[5]
Hội nhập quốc tế
Với việc rút hoàn toàn quân đội khỏi Campuchia, vấn đề Campuchia được giải quyết, Việt Nam đã phá được bao vây, cấm vận và không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa dạng hóa và đa phương hóa; bình thường hóa và từng bước xác lập quan hệ ổn định lâu dài với tất cả nước lớn, các nước công nghiệp phát triển. Cho đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 193 (một trăm chín mươi ba) nước, trong đó có tất cả các nước lớn, có quan hệ kinh tế với hơn 221 (hơn hai trăm hai mươi mốt) thị trường nước ngoài và là thành viên của nhiều tổ chức và diễn đàn quốc tế như:
Năm 2010, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đối ngoại nổi bật: Việt Nam đảm nhận thành công vai trò Chủ tịch ASEAN: Với chủ đề Hướng tới Cộng đồng ASEAN: Từ tầm nhìn tới hành động, chủ trì thành công Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) Đông Á, tổ chức thành công Hội thảo quốc tế Việt Nam – châu Phi lần thứ II. Năm 2012, Việt Nam tổ chức thành công Diễn đàn Việt Nam – Mỹ Latin về Thương mại và Đầu tư. Trong năm 2020, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, đặc biệt là Dịch COVID – 19, với vai trò Chủ tịch ASEAN, Việt Nam đã chủ trì và tổ chức thành công các Hội nghị Cấp cao đặc biệt ASEAN và ASEAN+3 về Ứng phó dịch bệnh COVID-19 (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản).
Chủ trương đối ngoại của Việt Nam có 3 trụ cột chính là:
Đảm bảo an ninh quốc gia, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, độc lập dân tộc, bản sắc dân tộc.
Đảm bảo sự thống nhất, ổn định của hệ thống chính trị.
Tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, đảm bảo đời sống nhân dân và nâng cao vị thế quốc gia.
Chủ trương đảm bảo an ninh quốc gia, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, độc lập dân tộc, bản sắc dân tộc: Được coi là mục tiêu tiên quyết trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Với lịch sử là nước phải hứng chịu nhiều cuộc xâm lược của nước ngoài và không có đạo quân xâm lược nào quan tâm, chăm lo cho cuộc của người dân nước họ chiếm đóng. Mọi cường quốc dù dưới bất kì hình thức hay màu cờ nào cũng đều chỉ muốn làm lợi cho riêng mình trên lưng nhân dân Việt Nam. Lịch sử Việt Nam cho thấy muốn cuộc sống ấm no hạnh phúc thì nhất định người Việt Nam phải làm chủ đất nước của mình và phải đảm bảo chiến tranh không xảy ra. Chỉ cần chiến tranh nổ ra thì dù kết quả thế nào đi chăng nữa, người dân Việt Nam cũng sẽ luôn phải chịu vô cùng nhiều đau thương và mất mát. Một đất nước xảy ra chiến tranh triền miên sẽ không thể nào phát triển kinh tế và đảm bảo cuộc sống ấm no hạnh phúc cho người dân được.[11] Điểm mấu chốt của trụ cột này là Việt Nam không bị quân đội nước ngoài xâm lược, công việc nội bộ của Việt Nam do người Việt Nam quyết định và chính quyền Việt Nam không bị thao túng bởi bất kỳ thế lực nào từ bên ngoài.[11]
Chủ trương đảm bảo sự thống nhất, ổn định của hệ thống chính trị: Từ góc độ lịch sử dân tộc cho thấy, yếu tố ổn định của hệ thống chính trị đóng vai trò quan trọng đối với nền hòa bình, an ninh và phát triển của Việt Nam. Bất kỳ sự thay đổi đột ngột nào, bạo loạn gần như chắc chắn sẽ xảy ra. Tuy nội chiến không nhất thiết sẽ nổ ra nhưng nó là nguy cơ không thể loại trừ. Lịch sử ngàn năm của Việt Nam cho thấy, khi đất nước bị chia rẽ, các cường quốc ở bên ngoài sẽ luôn chớp lấy thời cơ thao túng Việt Nam để trục lợi. Do đó, có thể nói rằng việc duy trì ổn định chính trị quốc nội và chính quyền vững mạnh là yếu tố mang tính then chốt để đảm bảo an ninh quốc gia.[11]
Chủ trương tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, đảm bảo đời sống nhân dân và nâng cao vị thế quốc gia: Khu vực càng ít biến động, các cường quốc càng hạn chế tranh giành quyền lực, thì Việt Nam càng có thể tập trung nguồn lực phát triển kinh tế và đầu tư cho giáo dục, an sinh xã hội. Khi nền kinh tế phát triển bền vững, ổn định chính trị sẽ đi theo. Theo giới tinh hoa Việt Nam, đảm bảo kinh tế phát triển và nâng cao đời sống người dân là yếu tố quyết định tới ổn định chính trị.[11] Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là một trong các nội dung để xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam. Trong đó, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân được coi là quan trọng nhất.[12]
Một trong các biện pháp để Việt Nam đảm bảo 3 trụ cột vừa nói là "Cân bằng quan hệ", đặc biệt là cân bằng quan hệ các nước lớn. Theo Ngoại trưởng Phạm Bình Minh: "Chính sách đối ngoại của đất nước ta trong 70 năm qua luôn bảo đảm nhất quán lập trường giữ cân bằng trong quan hệ với các nước để phục vụ lợi ích dân tộc. Quan hệ quốc tế đúc kết ra thực tế rằng các nước lớn có thương lượng trên lưng các nước nhỏ. Nhiều quốc gia khác cũng trải qua việc này, không chỉ có Việt Nam. Để đạt được lợi ích quốc gia, các nước cũng có nhiều thỏa thuận gây hại cho quốc gia khác. Điều quan trọng là chúng ta phải đánh giá và có chủ trương đúng đắn, linh hoạt để tránh những tác hại từ những thỏa thuận của các nước lớn đối với lợi ích dân tộc. Đây cũng là thách thức to lớn bởi vì ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang diễn ra sự cạnh tranh rất quyết liệt giữa các nước".[13]
Các vấn đề hiện tại
Kể từ chiến dịch biên giới Tây Nam, căng thẳng nảy sinh từ lịch sử giữa Việt Nam và các quốc gia láng giềng vẫn còn tồn đọng, đặc biệt là Trung Quốc khi cả hai quốc gia đều khẳng định yêu sách đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa - hai quần đảo lớn ở biển Đông. Các yêu sách mâu thuẫn nhau đã tạo ra những xung đột vũ trang quy mô nhỏ. Năm 1988, hơn 70 quân nhân Việt Nam đã thiệt mạng trong một cuộc đối đầu với lực lượng Trung Quốc, khi Trung Quốc chiếm đóng một số đảo do Việt Nam kiểm soát ở quần đảo Trường Sa. Việc Việt Nam và Nga tuyên bố thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào tháng 3 năm 2001 trong lần đầu tiên thăm Hà Nội của một nguyên thủ quốc gia Nga, được xem là một nỗ lực để đối trọng với Trung Quốc.
Hoàng tử Lý Long Tường của nhà Lý chạy trốn và lưu đày ở Cao Ly vào năm 1226 để tránh sự hành quyết của nhà Trần
Cả hai đã có một số cuộc gặp gỡ khi cả hai đều cử sứ giả đến cống nạp cho Đế quốc Trung Hoa.
Bắc Triều Tiên công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 31 tháng 1 năm 1950
Tháng 7 năm 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Triều Tiên
Lãnh đạo Triều Tiên Kim Il-sung thăm miền Bắc Việt Nam vào tháng 11-tháng 12 năm 1958 và tháng 11 năm 1964.
Tháng 2 năm 1961, Chính phủ hai nước đã ký kết một thỏa thuận về hợp tác khoa học và kỹ thuật.
Chủ tịch Kim Nhật Thành đã cử một số phi đội máy bay chiến đấu ra Bắc Việt để hỗ trợ cho các phi đội máy bay chiến đấu 921 và 923 của Bắc Việt bảo vệ Hà Nội trong khi Hà Nội bị không quân Mỹ ném bom.
Từ những năm 1950 đến 1960, sinh viên Bắc Việt bắt đầu học tập tại Triều Tiên ngay từ những năm 1960.
Mối quan hệ sau đó suy giảm do tranh chấp đầu tư và thương mại trong những năm 1990 và 2000 cũng như mối quan hệ mới nổi giữa Hàn Quốc và Việt Nam.[15]
Chúa Nguyễn Hoàng bắt đầu gửi quốc thư cho Tokugawa Ieyasu mời thương gia Nhật Bản đến Hội An vào năm 1605
Hoàng tử Cường Để bị đày sang Nhật Bản năm 1905
Việt Nam Duy Tân Hội (Hiệp hội Hiện đại hóa Việt Nam) được thành lập năm 1904 bởi Phan Bội Châu, Người theo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam mong muốn đưa người dân của mình sang Nhật Bản học tập thông qua Phong trào Đông Du
Đế quốc Nhật Bản xâm chiếm Đông Dương thuộc Pháp năm 1940
Nhật Bản đầu hàng năm 1945
Hai nước thiết lập quan hệ vào ngày 21 tháng 9 năm 1973
Sau Đạo luật cuối cùng ngày 23 tháng 10 năm 1991 của Hội nghị quốc tế Paris về Campuchia giữa các bên Campuchia, Indonesia (với tư cách là đồng chủ tịch với Pháp) và năm thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Nhật Bản đã nhanh chóng thiết lập quan hệ ngoại giao và chấm dứt các hạn chế kinh tế với Campuchia và Việt Nam. Tháng 11 năm 1992, Tokyo viện trợ cho Việt Nam 370 triệu USD. Nhật Bản cũng đóng vai trò dẫn đầu trong các hoạt động gìn giữ hòa bình ở Campuchia. Akashi Yasushi của Nhật Bản, Tổng thư ký Liên hợp quốc về giải trừ vũ khí, là người đứng đầu Cơ quan chuyển tiếp của Liên hợp quốc tại Campuchia, và Nhật Bản đã cam kết chi 3 triệu USD và thậm chí cử khoảng 2.000 nhân viên, bao gồm cả các thành viên của SDF, tham gia trực tiếp vào việc duy trì hòa bình. Bất chấp việc một lính gìn giữ hòa bình Nhật Bản thiệt mạng trong một cuộc phục kích, lực lượng này vẫn ở lại Campuchia cho đến khi người Campuchia có thể bầu cử và thành lập chính phủ.
Nhật Bản là quốc gia tài trợ lớn nhất cho Việt Nam Họ đã cam kết viện trợ 890 triệu USD cho đất nước trong năm nay, cao hơn 6,5% so với mức 835,6 triệu USD năm 2006.[16]
Khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô, đại sứ quán nằm ở Almaty.
Sau khi Liên Xô tan rã thì được di chuyển tới Nur-Sultan.
Kazakhstan có đại sứ quán ở Hà Nội.
Ngày 6/1, tại trụ sở Phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc, New York, Hoa Kỳ, Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn thay mặt Chính phủ Việt Nam và Đại sứ Stan Oduma Smith, Trưởng Phái đoàn đại diện thường trực Bahamas tại Liên hợp quốc, thay mặt Chính phủ Bahamas, đã ký "Thông cáo chung thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Bahamas".[19]
Ngày 1/2/2023 (giờ Mỹ), tại trụ sở Phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam tại Liên Hợp Quốc ở New York, Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn thay mặt Chính phủ Việt Nam và Đại sứ Dennis Francis Smith, Trưởng Phái đoàn đại diện thường trực Trinidad & Tobago tại Liên Hợp Quốc, thay mặt Chính phủ Trinidad & Tobago, đã ký "Thông cáo chung thiết lập quan hệ ngoại giao giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Trinidad & Tobago".[20]
Năm 2006, Chính phủ Bulgaria đồng ý thỏa thuận hợp tác y tế với Việt Nam. Kế hoạch hợp tác kéo dài 2 năm trên nhiều lĩnh vực, chủ yếu trong dịch vụ y tế công, chăm sóc bệnh nhân nội trú và ngoại trú, an ninh lương thực và đào tạo nhân lực ngành y tế.[24]
Thụy Điển từng ủng hộ, giúp đỡ, hỗ trợ Việt Nam trong và sau chiến tranh.
Thụy Điển có đại sứ ở Hà Nội, Việt Nam (đại sứ tạm ngừng hoạt động vì thiếu kinh phí trong năm 2010 – cuối năm 2011, hoạt động trở lại vào đầu năm 2012) và lãnh sự quán ở Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Pháp là kẻ thù khó có thể tha thứ đối với Việt Nam trong thời kỳ cận đại, khi trực tiếp khiến Việt Nam phải trải qua giai đoạn bất ổn nhất trong lịch sử và không thể phát triển, bị tụt hậu trăm năm so với các quốc gia phát triển trên thế giới bằng việc xâm phạm lãnh thổ, chiếm đóng, đô hộ và gây chia cắt hai miền nam bắc:
Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược và chiếm đóng Việt Nam từ năm 1858. Pháp đô hộ Việt Nam trong giai đoạn 1884-1945.
Thất bại hoàn toàn sau trận Điện Biên Phủ, nhưng tại Hiệp định Genève 1954, Pháp vẫn không muốn Việt Nam được thống nhất một cách tuyệt đối, khi mang lập trường muốn giữ lại quyền kiểm soát chủ quyền, quân sự và kinh tế ở miền nam (thay vì giải tán chính quyền Quốc gia Việt Nam và trả lại các quyền kiểm soát này về phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà). Điều này gián tiếp giúp Mỹ can thiệp quân sự vào Việt Nam và Quốc gia Việt Nam chuyển hoá thành Việt Nam Cộng hoà, khiến Việt Nam bị chia cắt và tiếp tục rơi vào tình trạng chiến tranh trong 20 năm tiếp theo.
Sau Hiệp định Paris 1973, Pháp mới lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Hai bên từng thiết lập quan hệ ngoại giao vào 30/1/1950 kể từ Liên Xô, Sau vụ Đảo chính 1991 thì hai bên cắt đứt lần đầu vào tháng 8/1991 sau đó thiết lập lại vào 24/1/1992 để khắc phục hậu quả thời Hậu Xô viết.
Từ năm 1997, Belarus có đại sứ quán tại Hà Nội.[29]
Từ tháng 11 năm 2003, Việt Nam có đại sứ quán ở Minsk.[30]
Quan hệ ngoại giao giữa Armenia và Việt Nam được thiết lập lần đầu vào năm 1950 kể từ thời Xô viết, Sau khi Liên Xô tan rã thì chính thức vào ngày 14 tháng 7 năm 1992.[31]
Việt Nam có đại diện tại Armenia thông qua đại sứ quán ở Moscow, Nga.[32]
Armenia có đại sứ quán ở Hà Nội.
Sau khi kết thúc Chiến tranh Việt Nam, Khâm sứ Tòa Thánh đã bị buộc phải rời Việt Nam. Từ đó, Khâm sứ Tòa Thánh không có quyền hạn như đại sứ, không phải là đại diện ngoại giao của một Nhà nước, các Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt Nam không bị đàn áp, nhưng vẫn không được hoạt động kể từ năm 1975.[33]
Vào 1/2011, Tòa Thánh bổ nhiệm đầu tiên làm "Sứ thần Tòa Thánh không thường trú tại Việt Nam" là Tổng Giám mục Leopoldo Girelli. Ông là Tổng Giám mục đầu tiên kiêm nhiệm vai trò khác như Sứ thần Tòa Thánh tại Singapore và Khâm sứ Tòa Thánh tại Malaysia, từ năm 2011 đến năm 2017. Vào tháng 5/2018, Tòa Thánh bổ nhiệm Tổng giám mục Marek Zalewski làm Sứ thần Tòa Thánh thứ hai tại Việt Nam.
Nhân dịp Nam Sudan chính thức tuyên bố độc lập, ngày 10/7/2011, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã gửi điện mừng đến Salva Kiir Mayardit, Tổng thống Nam Sudan.[35]
Ngày 21/2/2019, hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (TLQHNG), thông cáo chung về việc TLQHNG được ký tại trụ sở Phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc.[36]
Việt Nam và Malawi chưa thiết lập quan hệ ngoại giao. Tháng 10/2011, hai bên đã thống nhất dự thảo thông cáo chung thiết lập quan hệ ngoại giao và hoàn tất thủ tục ủy quyền cho Đại sứ, Trưởng Phái đoàn mỗi nước tại New York ký TC thiết lập QHNG. Tuy nhiên do vấn đề nội bộ, phía Malawi chưa thực hiện được. Đến nay hai nước đang trong quá trình khởi động lại việc thiết lập quan hệ ngoại giao.[37]
Quan hệ kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và Malawi còn ở mức rất khiêm tốn. Kim ngạch thương mại song phương khoảng hơn 3 triệu USD (2017), Việt Nam thu nhập khoảng 2,5 triệu USD với các mặt hàng chủ yếu là nguyên phụ liệu thuốc lá, bông và đậu tương.[37]
Hiện hai nước trao đổi chủ yếu qua kênh Phái đoàn Việt Nam tại Liên hợp quốc. Đại sứ quán Việt Nam tại Mô-dăm-bích được giao theo dõi Malawi.[37]
Ngày 23/9/2022, bên lề Tuần lễ cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc (ĐHĐ LHQ) khóa 77, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh đã có các cuộc tiếp xúc song phương với Bộ trưởng Ngoại giao Malawi. Tiếp Bộ trưởng Ngoại giao Malawi Nency Tembo, Phó Thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh đề nghị hai bên sớm ký Thông cáo chung về việc thiết lập quan hệ ngoại giao; thông báo Việt Nam đang hoàn tất việc cử quan sát viên tại Liên minh châu Phi; cảm ơn sự ủng hộ của Malawi và mong muốn cùng Malawi thúc đẩy quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa Việt Nam và các nước châu Phi. Hai bên tin tưởng quan hệ chính trị-ngoại giao tốt đẹp sẽ là nền tảng cho phát triển kinh tế, thương mại trong thời gian tới.[38]
Ngày 23/9/2024 theo giờ Hoa Kỳ, tại trụ sở Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc ở New York, Hoa Kỳ, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đã cùng Bộ trưởng Ngoại giao Malawi Nancy Tempo chứng kiến lễ ký thông cáo chung thiết lập quan hệ ngoại giao.[39]
^[3] Việt Nam và Indonesia trở thành đối tác chiến lược
^“Internet Archive Wayback Machine”. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2014. Truy cập 30 tháng 9 năm 2015. Chú thích có tiêu đề chung (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
^Antonio G. Filipazzi, Rappresentanze e Rappresentanti Pontifici dalla seconda metà del XX secolo (Libreria Editrice Vaticana 2006 ISBN 88-209-7845-8), p. X, XII, XV, 189