Phạm Duy Khiêm

Phạm Duy Khiêm năm 1943

Phạm Duy Khiêm (1908-1974) là nhà giáo, nhà văn, cựu đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp và tại UNESCO. Ông là con trai nhà văn Phạm Duy Tốn (1881-1924) và anh cả của nhạc sĩ Phạm Duy.

Tiểu sử

Cuộc đời

Phạm Duy Khiêm sinh ngày 24 tháng 4 năm 1908 tại Hà Nội. Ông quê gốc ở làng Phượng Vũ, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội). Cha ông là nhà văn Phạm Duy Tốn.

Ông Phạm Duy Tốn mất sớm vì bệnh lao, năm 43 tuổi, để lại nhiều nợ nần. Lúc đó Phạm Duy Khiêm 15 tuổi. Mới học troisième (tức lớp 9 bây giờ), ông đã thay cha trở thành trụ cột của gia đình. Nhờ sự trợ giúp của một tư nhân, Phạm Duy Khiêm có thể tiếp tục việc học ở trường Albert Sarraut, Hà Nội.

Ông là một học sinh xuất sắc, giỏi nhất về cổ ngữ Latin, Hy Lạp, là người Việt Nam đầu tiên đỗ tú tài văn chương Pháp (Bac classique). Sau đó ông được học bổng sang Pháp theo học lớp dự bị văn chương tại trường Louis le Grande. Sau đó, Phạm Duy Khiêm đỗ vào trường Cao đẳng sư phạm của Pháp (École Normale Supérieure, rue d'Ulm), cùng khóa với René Billières, Thierry Maulier (nhà văn), Georges Pompidou (sau này là tổng thống Pháp), Leopold Senghor (sau này là tổng thống Sénégal), rồi đậu thạc sĩ văn phạm Pháp (Agrégée de grammaire). Ông là người Việt Nam đầu tiên đậu văn bằng này.

Năm 1935, ông về nước làm giáo sư tại trường Bưởi, rồi trường Albert Sarraut. Từ tháng 9 năm 1939 đến tháng 6 năm 1940, ông gia nhập quân đội kháng chiến Pháp chống phát xít Đức, nhưng rồi giải ngũ vì Thủ tướng Pháp Philippe Pétain nghị hòa với Đức, giải tán quân đội. Phạm Duy Khiêm trở về Việt Nam, tiếp tục dạy học, viết văn và làm báo. Năm 1950, mẹ ông từ trần. Ít lâu sau, ông rời Việt Nam sang sống hẳn tại Pháp.

Tham gia chính trường

Tháng 7 năm 1954, ông được Thủ tướng Quốc gia Việt NamNgô Đình Diệm mời làm Bộ trưởng đặc nhiệm phủ thủ tướng, năm 1955 làm cao ủy, rồi làm đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp.

Đến năm 1957, ông được cử làm đại diện thường trực Việt Nam Cộng hòa cạnh tổ chức UNESCO. Nhưng sau đó vì bất đồng quan điểm với chính quyền đương thời nên ông không đảm nhận chức vụ này. Từ đó, ông bỏ nhiệm sở.

Tham gia giảng dạy

Ông ở lại Pháp làm giáo sư.

Ngày 5 tháng 7 năm 1957, ông nhận bằng tiến sĩ danh dự của Đại học Toulouse (Pháp).

Từ năm 1958 trở đi, Phạm Duy Khiêm sống ở Pháp bằng nhiều nghề: diễn thuyết, dạy học tư thục, đọc bản thảo để chọn tác phẩm và sửa lỗi cho các nhà in, sửa bài và duyệt sách cho Ủy ban xét lại Pháp ngữ...

Cuối đời

Ngày 2 tháng 12 năm 1974, ông Phạm Duy Khiêm tự kết liễu đời mình tại nhà riêng ở nông trại La Hertaudrie, thuộc quận Montreuil le Henri, vùng Sarthe, cách Paris hơn 200 km, như ông đã nghĩ từ hồi còn trẻ:

Ta phải biện minh sự hiện diện của ta trên cõi đời này (il faut justifier sa présence sur cette terre).

Tính cách

Đối với gia đình, Phạm Duy Khiêm là người anh cả lạnh lùng và nghiêm khắc, một người chủ gia đình thực sự. Nhạc sĩ Phạm Duy nhớ lại trong hồi ký của ông: "Lúc còn bé, nếu tôi nhớ không lầm, tôi chỉ được đùa chơi với anh Khiêm có hai lần" và "Bây giờ sống chung với người anh, tôi không được đánh đàn. Muốn đàn ca phải chờ khi anh ấy vắng nhà. Có lần quá cao hứng nên không đề cao cảnh giác, người anh chợt về, giật cái đàn mandoline vứt xuống đất và thân tặng nhạc sĩ mầm non một trận đòn. Một lần khác, vào mùa hè, tôi đang nằm trên nền nhà đá hoa để hưởng cái mát dịu, anh Khiêm ở đâu về, sồng sộc tới chỗ tôi nằm, nắm cổ lôi dậy, phạt tôi quỳ trước sự ngạc nhiên của mẹ tôi: Ai cho mày nằm dưới đất? Quỳ xuống đó!" (Hồi ký Phạm Duy, trang 129).

Ở trường học, Phạm Duy Khiêm là một người thầy khắt khe. Với những học trò dốt, ông không ngần ngại cho điểm âm. Học trò người Việt oán vì thầy không nâng đỡ người Việt. Học trò người Pháp căm giận vì bị một người thầy bản xứ sỉ nhục. Việc Phạm Duy Khiêm tự nguyện đi lính cho Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ hai cũng là một hành động khó hiểu.

Khi làm chính trị, nhận chức vụ đại sứ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, Phạm Duy Khiêm hết sức ngay thẳng, không sợ mọi áp lực cửa quyền. Đó được cho là lý do khiến ông không làm đại sứ cho ông Ngô Đình Diệm được lâu. Sau này, khi Georges Pompidou lên làm tổng thống Pháp, ngỏ ý muốn gặp, Phạm Duy Khiêm thẳng thắng trả lời: rất vui mừng gặp lại bạn học cũ, nhưng đến yết kiến tổng thống thì không! Khi Léopold Senghor, tổng thống Sénégal, một người bạn học cũ khác, cũng là một nhà thơ nổi tiếng, gửi tặng một tập thơ, Phạm Duy Khiêm gửi trả lại với những lời phê, gạch đỏ, của một người thầy.

Đánh giá về tính cách Phạm Duy Khiêm, Thụy Khuê viết:

Đó là một người không chống ai, chỉ chống bất công và áp bức. Coi rẻ tiền tài và quyền lực. Liêm khiết, thẳng thắng, khó với mình và khó với người. Yêu nước và có trách nhiệm với gia đình. Vỏ ngoài cứng rắn bao bọc một nội tâm mềm yếu, vô cùng nhạy cảm và suốt đời cô đơn. Chán đời từ thời còn trẻ, hấp thụ trọn vẹn hai nền văn hóa Đông Tây, rất Khổng Mạnh trong nghĩa chính nhân quân tử, nhưng cũng lại rất Tây phương trong tư tưởng và hành động.

Văn nghiệp

Quá trình sáng tác

Hầu như tất cả các tác phẩm của Phạm Duy Khiêm đều được viết bằng tiếng Pháp.

Tác phẩm đáng chú ý đầu tiên của ông là De Hà Nội à La Courtine (Từ Hà Nội đến La Courtine), một tự truyện viết về thời gian ông đầu quân chống Đức, ký bút hiệu Nam Kim, do nhà xuất bản Taupin in lần đầu tại Hà Nội năm 1941. Năm 1958, nhà xuất bản Plon in lại cuốn này tại Paris, đổi tên thành La place d'un homme (Vị thế một con người). Đây là một trong ba tác phẩm chính của Phạm Duy Khiêm.

Năm 1942, ông viết tiếp De Courtine à Vichy (Từ Courtine đến Vichy), cuốn này bị cấm xuất bản.

Tác phẩm thành công nhất của Phạm Duy Khiêm có lẽ là Légendes des terres sereines (Huyền truyện miền thanh lãng), nội dung hòa hợp giữa cổ tích, huyền thoại, giai thoại và thực tế. Tác phẩm được tiếp đón nồng nhiệt ngay từ lúc ra đời, đoạt giải Văn chương Đông Dương (Prix littéraire de l'Indochine). Nhà xuất bản Taupin in đi in lại ba lần cuốn này chỉ trong năm 1943. Năm 1997, Légendes des terres sereines lại được nhà xuất bản Philippe Piquier tái bản dưới dạng sách bỏ túi

Tiếp đó ông viết La jeune femme de Nam Xương (Thiếu phụ Nam Xương, Taupin, 1944).

Tác phẩm quan trọng thứ ba của Phạm Duy Khiêm là cuốn tiểu thuyết Nam et Sylvie (Nam và Sylvie) cũng là một tự truyện (Plon, 1957, Paris), đoạt giải Louis Barthou của Viện Hàn Lâm Pháp.

Cuối cùng phải kể đến cuốn Ma mère (Mẹ tôi), chưa xuất bản, mặc dù năm 1972, khi giáo sư Nguyễn Đình Hòa từ Mỹ sang Pháp thăm Phạm Duy Khiêm hai năm trước khi ông mất, đã ngỏ ý muốn đưa bản thảo về Mỹ để dịch sang tiếng Anh và in tại Hoa Kỳ, nhưng Phạm Duy Khiêm từ chối vì muốn nguyên bản Pháp văn phải in tại Pháp trước.

Dùng tiếng Pháp truyền bá văn hóa Việt

Tác phẩm của Phạm Duy Khiêm hầu hết viết bằng tiếng Pháp. Khi chọn tiếng Pháp làm ngôn ngữ văn chương, ông đã có chủ đích muốn truyền bá văn hóa Việt Nam và tạo uy danh cho Việt Nam trên văn đàn thế giới qua một thứ tiếng thông dụng.

Mục đích này của Phạm Duy Khiêm thể hiện rõ rệt nhất qua tác phẩm Légendes des terres sereines (Huyền truyện miền thanh lãng). Được viết hoàn toàn bằng tiếng Pháp, cuốn sách là sự sáng tác lại ba mươi truyện cổ tích hoặc giai thoại văn hóa Việt Nam và Trung Quốc, nhưng có ảnh hưởng mạnh ở Việt Nam như Trương Chi, Khuất Nguyên, Quan Âm Thị Kính, Hòn Vọng Phu, Từ Thức, Sự tích con muỗi, Giấc mộng Nam Kha, Mỵ Châu Trọng Thủy, Trang Tử khóc vợ, Chử Đồng Tử và Tiên Dung, Nhị Khanh, Sự tích con dã tràng, Trầu cau...

Légendes des terres sereines không chỉ là những cổ tích hiểu theo nghĩa thông thường. Phạm Duy Khiêm dùng cổ tích như cái cớ sáng tạo và truyền bá tư tưởng. Ông viết lại cổ tích với văn phong đầy chất thi ca và hướng về độc giả Tây phương, ông tìm cách giải thích những mấu chốt trong tâm hồn Việt, trong văn hóa Việt, xuyên qua ý nghĩa các huyền thoại.

Thụy Khuê bình luận:

Với bút pháp tế nhị đầy cảm xúc và hình ảnh, Phạm Duy Khiêm dựng nên những mẩu đời, mẩu mộng khác thường, thoát khỏi cách kể truyện cổ tích bình thường, dù cho chúng có bắt đầu bằng hai chữ ngày xưa...
Cho nên Huyền truyện miền thanh lãng không chỉ giới thiệu với thế giới bên ngoài những mẩu truyện kỳ của đất Việt, mà còn nói lên triết lý sống - bằng bút pháp thanh cao, điêu luyện, của một nhà văn tài hoa, về tình yêu, về cái chết - một triết lý mang nặng khổ đau và cát bụi đời người ở những miền thanh lãng.

Lòng tự hào dân tộc qua văn chương

Dù các tác phẩm đều viết bằng tiếng Pháp, điều kỳ lạ là trong những câu chuyện của Phạm Duy Khiêm luôn thể hiện lòng tự hào dân tộc, về đất nước Việt Nam nơi ông sinh ra, chứ không phải nước Pháp nơi ông học tập và trưởng thành, một cách sâu lắng, tinh tế và đầy tính nhân bản.

Điều này thể hiện rõ rệt nhất qua hai tác phẩm, De Hà Nội à La Courtine (hay La place d'un homme) và Nam et Sylvie.

Từ khi còn học trường Cao đẳng sư phạm rue d'Ulm, Phạm Duy Khiêm đã thể hiện rõ quan điểm sáng tác của mình khi ông diễn thuyết trong trường, hoặc viết báo để phổ biến văn hóa Việt và đáp trả những hành động phỉ báng người Việt trong các tác phẩm văn hóa Pháp.

De Hanoi à la Courtine là một tự truyện được viết dưới dạng những bức thư của một người lính tên là Nam Liên, gửi cho những người quen xa gần ở Pháp và An Nam. Cuốn sách phần nào hé lộ những đấu tranh tuyệt vọng của Phạm Duy Khiêm, cả về tư tưởng lẫn hành động, vì quyền ngang bằng giữa "indigène", hay người bản xứ An Nam và người Pháp ở mẫu quốc. Ông viết:

Là người bản xứ, anh không bị bắt buộc đi quân dịch, anh không có quyền cầm súng. Nếu là một thanh niên Pháp hay Đức, anh có quyền chờ đợi để chiến đấu, để hy sinh một ngày nào đó. Anh có quyền ngưỡng mộ hình ảnh tổ tiên treo trên tường đã chết vì tổ quốc. Một thanh niên An Nam chỉ có quyền chết bệnh. Đôi mắt anh chỉ có quyền ngắm xã hội này hay xã hội kia, qua những thành quả vật chất, những kiểu mẫu sống đã hoạch định. Nhưng cũng cần nhắc cho anh biết rằng: ngoài tiền bạc, trong cuộc sống còn có sự hy sinh hay từ khước một lý tưởng.

Nam et Sylvie, tác phẩm được giải Louis Barthou năm 1957, lại là một tự truyện nữa. Phạm Duy Khiêm đã dành mười năm để viết hơn hai ngàn trang cuốn tiểu thuyết phóng tác theo nhật ký đồ sộ này. Nam et Sylvie chính là những mảnh nhật ký của cuộc đời ông sau 20 năm nhìn lại, với khoảng cách không gian và thời gian. Câu chuyện kể về tình yêu của một chàng trai An Nam với một cô gái Pháp, những giằng xé nội tâm của Nam ở đất Pháp trọ học và đất Việt quê hương, giữa người Pháp thực dân và người Pháp bản xứ...

Thụy Khuê đánh giá:

Tác phẩm trỗi lên một niềm tự hào bản thân và tự hào dân tộc như một điệu nhạc thầm trong lòng người thanh niên thuộc thành phần ưu tú nhất của trí thức Pháp mà lại xuất thân từ một dân tộc bị chà đạp, khinh bỉ.

Trong tác phẩm, Nam nói, như chính Phạm Duy Khiêm nói, trong cảnh chia tay Sylvie ở bến tàu:

Riêng tôi, tôi đã chuẩn bị từ lâu: Tôi không bao giờ bỏ gia đình và đồng bào tôi... Những lý do thông thường không giải thích được nỗi đớn đau cực độ của tôi trong những ngày cuối cùng ở Paris và những bối rối của tôi trong những giờ phút chót, Chính Sylvie, ý nghĩ sẽ mãi mãi mất nàng và sự vắng mặt của nàng trên sân ga, đã làm cho chuyến về này trở nên tàn nhẫn, xé nát diện mạo tôi đến không thể nào vá víu lại được.

Giải thưởng và đánh giá

Giải thưởng

  • Prix litéraire d'Indochine (Giải văn chương Đông Dương) cho cuốn Légendes des Terres Sereines
  • Giải thưởng Louis Barthou của Viện Hàn lâm Pháp cho tác phẩm Nam et Sylvie.

Đánh giá

Khi tự đánh giá về mình, Phạm Duy Khiêm nói:

Thầy đồ (agrégé) Phạm Duy Khiêm xây dựng Việt ngữ, nhưng nhà văn Phạm Duy Khiêm phải tạo uy danh Việt Nam trên văn đàn thế giới.

Trong lĩnh vực chính trị ông khẳng định:

Tôi đã đem lại cho chính phủ Ngô Đình Diệm một danh vị. Tôi là người cộng sự chứ không phải là tay sai như ai.

Cố tổng thống Pháp Georges Pompidou viết về ông:

Chẳng phải vì tò mò chuộng lạ mà tôi đã hướng tới bạn L. S Senghor, cũng như hướng tới bạn chung của chúng tôi là Phạm Duy Khiêm... Dù sao, với thời gian ba chúng tôi càng trở nên thân thiết. Không một chút khó khăn, tôi nhận thấy ở các bạn tôi một thái độ kiêu hùng, hãnh diện vì dân tộc và tha thiết với đất nước (họ) mặc dầu rất thâm trầm văn hoá của Âu châu và nước Pháp.

Tác phẩm

  • Việt Nam văn phạm (soạn chung với Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, 1941)
  • De Hanoi à la Courtine (1941)
  • De la Courtine à Vichy (1942)
  • Mélanges (1942)
  • Légendes des Terres Sereines (1942)
  • La Jeune femme de Nam Xuong (1944)
  • Nam et Sylvie (1957)
  • La place d'un homme (1958)
  • Ma mère

Tham khảo

Trang web chính thức của nhạc sĩ Phạm Duy

Read other articles:

Bagian dari seri mengenai Sejarah Indonesia Prasejarah Manusia Jawa 1.000.000 BP Manusia Flores 94.000–12.000 BP Bencana alam Toba 75.000 BP Kebudayaan Buni 400 SM Kerajaan Hindu-Buddha Kerajaan Kutai 400–1635 Kerajaan Tarumanagara 450–900 Kerajaan Kalingga 594–782 Kerajaan Melayu 671–1347 Kerajaan Sriwijaya 671–1028 Kerajaan Sunda 662–1579 Kerajaan Galuh 669–1482 Kerajaan Mataram 716–1016 Kerajaan Bali 914–1908 Kerajaan Kahuripan 1019&#...

 

 

Agus Wirahadikusumah Panglima Komando Cadangan Strategis Angkatan DaratMasa jabatan29 Maret 2000 – 1 Agustus 2000 PendahuluDjaja SuparmanPenggantiRyamizard Ryacudu Informasi pribadiLahir(1951-10-17)17 Oktober 1951Bandung, Jawa BaratMeninggal30 Agustus 2001(2001-08-30) (umur 49)JakartaSuami/istriTri RachmaningishAnak2KerabatUmar Wirahadikusumah (paman)JulukanAWKKarier militerPihakIndonesiaDinas/cabang TNI Angkatan DaratMasa dinas1973−2001Pangkat Letnan Jenderal TNINRP264...

 

 

  هذه المقالة عن اللغات التي يتكلم بها سكان قارة أوروبا وليس جزيرة أروبا في البحر الكاريبي. لمعانٍ أخرى، طالع لغات أروبا. اللغات المتكلمة في أوروبا أغلبها من العائلة اللغوية الهندية الأوروبية أو الفينية الأوغرية.[1] أيضًا اللغات تركية موجودة بكثرة في أوروبا. توزع ا...

For other ships with the same name, see USS Leedstown. Leedstown, circa in 1944 History United States NameUSS Leedstown (APA-56) NamesakeLeedstown, Virginia, a city in Westmoreland County, Virginia BuilderBethlehem Steel Laid downAs Exchequer, 26 August 1942 Launched13 February 1942 Sponsored byMrs. William O. Douglass ChristenedExchequer Commissioned16 July 1943 Decommissioned7 March 1946 RenamedUSS Wood (AP-101), USS Leedstown (APA-56), Minute Man, Exilona ReclassifiedAP-101 to APA-56, 1 Fe...

 

 

Armoiries de la France (1831-1848) L’orléanisme est un mouvement politique français apparu au XIXe siècle et qui se décline sous deux formes, en deux périodes distinctes : l'orléanisme pur ou primitif (1830-1883), qui désignait les partisans de la maison d'Orléans et du régime de la monarchie de Juillet et qui s’est parfois appliqué aux courants politiques de la droite modérée ; l'orléanisme-fusionniste (depuis 1883), qui désigne les partisans de la maison d'O...

 

 

Gyrus of the temporal and occipital lobes of the brain Fusiform gyrusMedial surface of left cerebral hemisphere. (Fusiform gyrus shown in orange)Medial surface of right cerebral hemisphere. (Fusiform gyrus visible near bottom)DetailsIdentifiersLatingyrus fusiformisNeuroNames139NeuroLex IDbirnlex_1641TA98A14.1.09.227TA25500FMA61908Anatomical terms of neuroanatomy[edit on Wikidata] The fusiform gyrus, also known as the lateral occipitotemporal gyrus,[1][2] is part of the tem...

Russian politician In this name that follows Eastern Slavic naming customs, the patronymic is Arkadievich and the family name is Stankevich. Yury StankevichЮрий СтанкевичDeputy of the 8th State DumaIncumbentAssumed office 19 September 2021 Personal detailsBorn (1976-07-24) 24 July 1976 (age 47)Saratov, Russian Soviet Federative Socialist Republic, USSRPolitical partyUnited RussiaAlma materFinancial University under the Government of the Russian Federation Yuri Stanke...

 

 

Australian racing cyclist Richie PortePorte at the 2017 Paris–NicePersonal informationFull nameRichard Julian Porte[1]NicknameTasmanian DevilFishThe King of Willunga Hill[2]Born (1985-01-30) 30 January 1985 (age 39)Launceston, Tasmania, AustraliaHeight1.72 m (5 ft 7+1⁄2 in)[3]Weight62 kg (137 lb; 9 st 11 lb)[3]Team informationCurrent teamRetiredDisciplineRoadRoleRiderRider typeAll-rounderAmateur tea...

 

 

Scania and Blekinge Court of AppealHovrätten över Skåne och BlekingeCoat of arms.55°36′25″N 12°59′27″E / 55.6069°N 12.9908°E / 55.6069; 12.9908Established1821LocationMalmöCoordinates55°36′25″N 12°59′27″E / 55.6069°N 12.9908°E / 55.6069; 12.9908Appeals toSupreme Court of SwedenWebsitewww.hovrattenskaneblekinge.domstol.se The Scania and Blekinge Court of Appeal (Swedish: Hovrätten över Skåne och Blekinge) is one of t...

MurcofMurcof performing at Sónar Festival, Barcelona, 15 June 2007Background informationBirth nameFernando Corona MurilloAlso known asTerrestreBorn (1970-07-26) 26 July 1970 (age 53)Tijuana, MexicoGenresElectronic, ambient, contemporary classical music, glitch music, minimal techno, IDMOccupation(s)Musician, record producer, mastering engineerInstrument(s)Laptop, piano, cello, synthesizerYears active2001-presentLabelsStatic Discos, The Leaf Label, Context, InFiné, Blue Note RecordsWebs...

 

 

Северный морской котик Самец Научная классификация Домен:ЭукариотыЦарство:ЖивотныеПодцарство:ЭуметазоиБез ранга:Двусторонне-симметричныеБез ранга:ВторичноротыеТип:ХордовыеПодтип:ПозвоночныеИнфратип:ЧелюстноротыеНадкласс:ЧетвероногиеКлада:АмниотыКлада:Синапси...

 

 

大明 Велика Мін 1368 – 1644 ↓ Династія Мін: історичні кордони на картіМінський Китай за правління імператора Юн Ле Столиця Нанкін(1368—1421)Пекін(1421—1644) 39°54′ пн. ш. 116°23′ сх. д.H G O Мови китайська Форма правління монархія Імператор  - 1368-1398 імператор Хун У  - 1627-...

Simulator kereta api adalah sebuah perangkat lunak komputer yang menyimulasikan pengoperasian kereta api. Beberapa aspek yang termasuk dalam simulasi kereta api antara lain: Mengendalikan kereta api, menampilkan pandangan dari kabin masinis. Mengatur sinyal perjalanan kereta api. Memimpin sebuah perusahaan kereta api. Simulasi kereta api Berbayar Southern Belle (1985) Evening Star (1987) ''Train Simulator (1995) Let's Go by Train (1996) (atau Densha de GO!) Hornby Virtual Railway (2000) Micro...

 

 

Turkish politician and diplomat You can help expand this article with text translated from the corresponding article in Turkish. (July 2021) Click [show] for important translation instructions. View a machine-translated version of the Turkish article. Machine translation, like DeepL or Google Translate, is a useful starting point for translations, but translators must revise errors as necessary and confirm that the translation is accurate, rather than simply copy-pasting machine-transla...

 

 

Philippe Léotard Philippe Léotard en 1985Información personalNacimiento 28 de agosto de 1940 Niza (Francia) Fallecimiento 25 de agosto de 2001 (60 años)XI Distrito de París (Francia) Causa de muerte Insuficiencia respiratoria Sepultura Cementerio de Montparnasse Nacionalidad FrancesaLengua materna Francés FamiliaPadre André Léotard Pareja Nathalie Baye EducaciónEducado en Lycée Henri IVUniversidad de París Información profesionalOcupación Cantante, poeta, actor de teatro, actor d...

American sprinter Ariana WashingtonWashington at the 2018 U.S. ChampionshipsPersonal informationBorn (1996-08-27) August 27, 1996 (age 27)Signal Hill, California, U.S.Height5 ft 9 in (175 cm)[1]Weight135 lb (61 kg)[1]SportSportAthleticsEvent(s)100 m, 200 mCollege teamOregon DucksAchievements and titlesPersonal best(s)100 m: 11.01 (Eugene, 2016)200 m: 22.21 (Eugene, 2016) Medal record Women's athletics Representing the  Uni...

 

 

Teater Pantages Hollywoodfasad art Deco dari Teater PantagesTeater Pantages HollywoodTampilkan peta Los Angeles Metropolitan AreaTeater Pantages HollywoodTampilkan peta CaliforniaTeater Pantages HollywoodTampilkan peta Amerika SerikatLokasi6233 Hollywood BoulevardHollywood, Los Angeles, CaliforniaKoordinat34°06′07″N 118°19′32″W / 34.10194°N 118.32556°W / 34.10194; -118.32556Transportasi umumTemplat:LACMTA link logoTemplat:LACMTA icon strip Hollywood/VinePem...

 

 

台所流し[1] 流し台(ながしだい)とは、台所等に備え付けられている、水等を流す排水溝を備えた水槽状の台のことである。シンク (sink) ともいう。使用場所により、台所用流し台[1][2]、掃除用流し台[2]、洗濯用流し台[2]、実験用流し台[2]、薬品用流し台[2]などがある。 語源 ウィクショナリーに関連の辞書項目があります。sink...

List of events ← 2002 2001 2000 2003 in North Korea → 2004 2005 2006 Centuries: 20th 21st Decades: 1980s 1990s 2000s 2010s 2020s See also:Other events of 2003Years in North KoreaTimeline of Korean history2003 in South Korea Events from the year 2003 in North Korea. Incumbents Premier: Hong Song-nam (until 3 September), Pak Pong-ju (starting 3 September) Supreme Leader: Kim Jong-il Events 2003 North Korean parliamentary election 2003 North Korean local elections References vteYears...

 

 

Wilhelm Molterer (2023) Wilhelm Molterer (* 14. Mai 1955 in Steyr, Oberösterreich als Wilhelm Kletzmayr) ist ein ehemaliger österreichischer Politiker (ÖVP). Seit 2015 ist er Geschäftsführender Direktor des Europäischen Fonds für strategische Investitionen (EFSI).[1] Molterer war vom 11. Jänner 2007 bis zum 2. Dezember 2008 Vizekanzler und Bundesminister für Finanzen der Republik Österreich. Er war vom 21. April 2007 bis 28. November 2008 Bundesparteiobmann der ÖVP und bis...