Giới Nấm (tên khoa học: Fungi) bao gồm những sinh vật nhân chuẩndị dưỡng có thành tế bào bằng kitin (chitin). Phần lớn nấm phát triển dưới dạng các sợi đa bào được gọi là sợi nấm (hyphae) tạo nên thể sợi (mycelium), một số nấm khác lại phát triển dưới dạng đơn bào. Quá trình sinh sản (hữu tính hoặc vô tính) của nấm thường là qua bào tử, được tạo ra trên những cấu trúc đặc biệt hay thể quả. Một số loài mất khả năng tạo nên những cấu trúc sinh sản đặc biệt và nhân lên qua hình thức sinh sản sinh dưỡng.
Những đại diện tiêu biểu của nấm là nấm mốc, nấm men và nấm lớn (nấm thể quả). Giới Nấm là nhóm sinh vật đơn ngành (monophyletic) mà có nguồn gốc hoàn toàn khác biệt với những sinh vật có hình thái tương tự như nấm nhầy (myxomycetes) hay mốc nước (oomycetes). Nấm có mối quan hệ gần với động vật hơn là thực vật, cho dù thế thì môn học về nấm, hay nấm học, lại thường được xếp vào thành một nhánh của môn thực vật học.
Trên Trái Đất, đa phần các nấm đều không thể nhìn thấy được bằng mắt thường, chúng sống phần lớn ở trong đất, chất mùn, xác sinh vật chết, cộng sinh hoặc ký sinh trên cơ thể động, thực vật và nấm khác. Vi nấm đóng 1 vai trò quan trọng trong hệ sinh thái, chúng phân hủy các vật chất hữu cơ và không thể thiếu được trong chu trình chuyển hóa và trao đổi vật chất. Một số loài nấm có thể nhận thấy được khi ở dạng quả thể, như nấm lớn và nấm mốc. Nấm được ứng dụng rất rộng rãi trong đời sống lẫn sản xuất. Nhiều loài được sử dụng trong công nghệ thực phẩm, sử dụng làm thức ăn hoặc trong quá trình lên men. Nấm còn được dùng để sản xuất chất kháng sinh, hoóc môn trong y học và nhiều loại enzym, ngày nay nhiều loại nấm được biết đến và sử dụng trong phòng chống nhiều loại bệnh hiểm nghèo như viêm gan, mỡ máu, đột quỵ, ung thư... Tuy vậy, nhiều loại nấm lại có chứa các chất hoạt động sinh học được gọi là mycotoxin, như ancaloit và polyketit-là những chất độc đối với động vật lẫn con người (gây buồn nôn, khó chịu, ngộ độc). Một số loại nấm được sử dụng để kích thích hoặc dùng trong các nghi lễ truyền thống với vai trò tác động lên trí tuệ và hành vi của con người. Vài loại nấm có thể gây ra các chứng bệnh cho con người và động vật, cũng như bệnh dịch cho cây trồng, mùa màng và có thể gây tác động lớn lên an ninh lương thực và kinh tế.
Sự đa dạng
Nấm phân bố trên toàn thế giới và phát triển ở nhiều dạng môi trường sống khác nhau, kể cả sa mạc, nơi tập trung nồng độ muối cao[3] hay có bức xạ ion hóa,[4] cũng như trầm tích biển sâu.[5] Đa phần nấm sống ở trên cạn, nhưng một số loài sống ở môi trường nước (như Batrachochytrium dendrobatidis - ký sinh và làm suy giảm số lượng động vật lưỡng cư toàn cầu). Nấm thủy sinh còn sống ở vùng nhiệt dịch đại dương.[6] Nấm và vi khuẩn là những sinh vật phân giải chính có vai trò quan trọng đối với các hệ sinh thái trên cạn trên toàn thế giới. Dựa theo sự theo tỉ lệ giữa số loài nấm với số loài thực vật ở trong cùng một môi trường, người ta ước tính giới Nấm có khoảng 1,5 triệu loài[7]. Khoảng 100.000 loài nấm đã được các nhà phân loại học phát hiện và miêu tả,[8] tuy nhiên kích cỡ thực sự của tính đa dạng của giới Nấm vẫn còn là điều bí ẩn[9]. Đa phần nấm phát triển dưới dạng các sợi đa bào gọi là sợi nấm, cấu tạo nên thể sợi (hay khuẩn ty), trong khi những loài khác thì lại phát triển dưới dạng đơn bào[10][11]. Cho đến gần đây, nhiều loại nấm đã được miêu tả dựa trên những đặc điểm hình thái, như kích cỡ và hình dạng các bào tử hay quả thể, hay dựa trên khái niệm loài sinh vật với sự trợ giúp của các công cụ phân tử, như phương pháp Dideoxy, đã gia tăng mạnh cách thức và khả năng ước tính sự đa dạng của nấm trong phạm vi các nhóm phân loại khác nhau[12].
Sinh thái
Dù không dễ thấy, nhưng nấm lại có mặt ở tất cả các môi trường trên Trái Đất và đóng một vai trò rất quan trọng trong hệ sinh thái. Cùng với vi khuẩn, nấm là sinh vật phân hủy chính ở hầu hết các hệ sinh thái trên cạn (và một số là ở dưới nước), bởi vậy nên chúng cũng có vai trò quan trọng các chu trình sinh địa hóa và ở nhiều lưới thức ăn. Khi sống hoại sinh hay cộng sinh, chúng phân hủy những vật chất hữu cơ thành những phân tử vô cơ, rồi sau đó những chất này sẽ được đồng hóa ở thực vật hay những sinh vật khác [13][14].
Cộng sinh
Nấm có mối quan hệ cộng sinh với hầu hết tất cả các giới[15][16][17]. Quan hệ của chúng có thể hỗ trợ hoặc đối nghịch nhau, hay với những nấm hội sinh thì không đem lại bất cứ lợi ích hay tác hại rõ ràng nào đối với vật chủ [18][19][20].
Nấm rễ là một hình thức cộng sinh giữa thực vật và nấm, chia làm hai loại: nấm rễ trong (endomycorrhiza, tức nấm ký sinh đơn bào sống bên trong tế bào rễ cây) và nấm rễ ngoài (ectomycorrhiza, tức rễ của nấm bám dày đặc xung quanh đầu rễ cây và xâm nhập vào giữa các tế bào rễ cây). Đây là quần hợp nấm-thực vật được biết nhiều nhất và đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của thực vật cũng như nhiều hệ sinh thái, hơn 90% các loài thực vật có quan hệ với nấm theo hình thức nấm rễ và phụ thuộc vào mối quan hệ này để tồn tại[21][22][23]. Sự cộng sinh nấm rễ đã có lịch sử xa xưa, ít nhất là từ hơn 400 triệu năm về trước [24]. Chúng thường làm tăng khả năng hấp thu các hợp chất vô cơ của thực vật, như nitrat và phosphat, từ những đất có nồng độ những nguyên tố thiết yếu thấp[25]. Ở một số nấm rễ, thành phần nấm có thể đóng vai trò trung gian giữa thực vật với thực vật, vận chuyển carbohydrate và các chất dinh dưỡng khác. Những cộng đồng nấm rễ đó được gọi là "mạng lưới nấm rễ chung"[26]. Một số nấm có khả năng kích thích sự sinh trưởng của cây bằng cách tiết ra các hoóc môn thực vật như axít idolaxetic (IAA) [27].
Địa y là dạng cộng sinh giữa nấm (hầu hết các loài nấm nang và một số nấm đảm) với tảo hay vi khuẩn lam (gọi chung là đối tác quang hợp), trong đó những tế bào quang hợp được gắn vào những mô nấm [28]. Giống với nấm rễ, những đối tác quang hợp sẽ cung cấp cacbohyđrat được tạo ra trong quá trình quang hợp, đổi lại nấm cung cấp cho chúng các chất khoáng và nước. Những chức năng của toàn bộ cơ thể địa y gần như giống hệt với một cơ thể đơn độc. Địa y là những sinh vật tiên phong và xuất hiện ở những nơi nguyên thủy như đá tảng hay nham thạch núi lửa đã nguội. Chúng có thể thích nghi cực tốt với những điều kiện khắc nghiệt như giá lạnh hay khô hạn và là những ví dụ tiêu biểu nhất của sự cộng sinh[27].
Một số loài nấm sống trong cây có thể tiết ra những độc tố nấm để ngăn cản những động vật ăn cỏ ăn vật chủ của chúng[29].
Với côn trùng
Nhiều côn trùng có mối quan hệ hỗ trợ với nhiều loại nấm. Vài loại kiến trồng những loài nấm thuộc bộ Nấm mỡ (Agaricales) để làm nguồn thức ăn chính, trong khi đó những loài bọ cánh cứng Ambrosia trồng nhiều loài nấm trong lớp vỏ cây mà chúng cư trú [30]. Loài mối ở xavanchâu Phi cũng được biết có khả năng trồng nấm [31].
Có khoảng 70 loài[43] nấm sinh bào tử là những tác nhân gây dị ứng. Chúng có thể là nấm mốc trong nhà hay ngoài trời, đa phần là nấm sợi như các chi Alternaria, Asperillus, Cladosporium, Helminthosporium, Epicoccum, Penicillium, Fusarium..., chỉ có vài loài là nấm đơn bào như Candida, Rhodotorula, có một số loài là nấm lớn như Agaricus, Coprinus, Fomes, Ganoderma...[43][44] Bào tử nấm có thể gây ra những chứng như hen suyễn, viêm mũi dị ứng[45], các bệnh nấm dị ứng phế quản phổi và viêm phổi quá mẫn[44].
Một số loài nấm là những kẻ săn giun tròn. Chúng có thể biến đổi sợi nấm để tạo thành những cấu trúc đặc biệt có chức năng bẫy giun tròn, nên được gọi với tên chung là nấm bẫy mồi[46]. Những loại bẫy thường thấy là: mạng dính (hay lưới dính), bọng dính, vòng không thắt, cột dính, vòng thắt[47][48] và bào tử dính[49]. Các loài nấm bắt mồi theo kiểu này thường thuộc các chi Arthrobotrys, Dactylaria, Dactylella và Trichothecium[46][50]. Có vài loài như Zoopage phanera[46][51] thì lại tiết chất dính ra toàn bộ mặt ngoài sợi nấm và cũng có khả năng bẫy mồi tương tự.
Dinh dưỡng và khả năng tự dưỡng
Sự phát triển của nấm dưới dạng sợi nấm ở những môi trường rắn cũng như dưới dạng đơn bào ở môi trường nước, đều được điều chỉnh để hút các chất dinh dưỡng hiệu quả nhất từ môi trường, bởi chúng đều có tỉ lệ diện tích bề mặt trên thể tích cao. Sự thích nghi hình thái đã được bổ sung bởi những enzym thủy phân trong những môi trường tiêu hóa có phân tử hữu cơ lớn, như polysaccarit, protein, lipid và những chất nền dinh dưỡng khác. Những phân tử này bị thủy phân thành những phân tử nhỏ hơn[52][53][54], sau đó trở thành những chất dinh dưỡng được hấp thụ vào tế bào nấm.
Thông thường nấm được coi là những sinh vật dị dưỡng, tức những cơ thể chỉ có thể lấy cacbon từ những sinh vật khác cho quá trình trao đổi chất. Tuy nhiên, nấm đã tiến hóa khả năng chuyển hoá mà cho phép chúng sử dụng đa dạng những loại chất nền hữu cơ để phát triển, bao gồm các hợp chất đơn giản như nitrat, amonia, acetat hay ethanol[55][56]. Những nghiên cứu gần đây cho thấy khả năng rằng nấm đã sử dụng sắc tố melanin để lấy năng lượng từ những phóng xạ ion hóa, như tia gamma, gọi nôm na là "vô tuyến dưỡng"[57]. Người ta cho rằng quá trình này có điểm tương đồng với quá trình quang hợp ở thực vật[57]. Tuy nhiên, hiện nay đang thiếu những bằng chứng sinh hóa có giá trị ủng hộ cho giả thuyết này.
Một số loài nấm sợi thường được sử dụng để sản xuất sinh khối protein. Mốc Aspergillus oryzae được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước, như sản xuất nước tương (xì dầu), súp miso và rượu sake ở Nhật Bản[62] hay làm tempeh ở Java[63]. Mốc hoa cau được dùng để sản xuất tương, loại thực phẩm phổ biến ở Việt Nam, cũng chính là A. oryzae[62], tuy nhiên tương sản xuất thủ công lại có độ an toàn không cao, bởi những loại mốc tốt và không độc như A. oryzae và Aspergillus sojae lại rất dễ lẫn lộn với những loại mốc nguy hiểm có độc tố gây ung thư khác là A. flavus và A. parasiticus[62]. Quorn là loại thực phẩm giàu protein được sản xuất từ mốc Fusarium venenatum[64], và được dùng trong việc chế biến đồ ăn chay. Nhiều loại thực phẩm khác cũng được chế biến bởi mốc như chao (ủ nhờ mốc Actinomucor elegans, Mucor racemosus hay Rhizopus)[65], ang-kak (gạo lên men với mốc đỏ Monascus purpureus)[66], salami (một loại xúc xích, lên men nhờ P. nalgiovense, P. chrysogenum)[67][68]. Trong sản xuất pho mát, một kinh nghiệm thông thường là cấy bào tử nấm vào sữa đông để tạo mốc, việc này sẽ cho ra hương vị và kết cấu đặc biệt độc nhất của pho mát. Ở những loại pho mát xanh, như Stilton hay Roquefort, thì những vân xanh được tạo ra bởi loài nấm Penicillium roqueforti[69].
Những loài nấm quả thể được biết đến với hai dạng: nấm ăn được và nấm độc. Nấm ăn được sử dụng rộng rãi làm thực phẩm, chúng có thể sử dụng trong rất nhiều món ăn, ở nhiều nền ẩm thực khác nhau. Nấm là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, có độ đạm cao và ít chất béo, chứa nhiều vitamin nhóm B và C[65]. Dù nấm không phải là nguốn vitamin D đáng kể, nhưng hàm lượng vitamin D có thể tăng lên khi được phơi với ánh sáng (nhất là tia cực tím) dù điều này làm thẫm lớp vỏ của chúng[70]. Nấm cũng chứa nhiều nguyên tố vi lượng, như sắt, seleni, natri, kali, magnesi và phosphor[65].
Những loại nấm ăn được thường xuyên bày bán ở các chợ và siêu thị đều được trồng ở các trang trại nấm. Loại nấm phổ biến nhất là nấm mỡ (Agaricus bisporus)[71], được trồng ở ít nhất 70 quốc gia trên thế giới[72]. Những dạng khác của A.bisporus là portabella và nấm mũ (crimini) cũng được trồng thương mại. Nhiều loại nấm châu Á cũng được trồng và tiêu thụ rộng rãi là nấm rơm (Volvariella volvacea), nấm hương (Lentinula edodes), nấm sò (Pleurotus ostreatus), mộc nhĩ (Auricularia auricula-judae), enokitake (nấm kim châm, Flammulina) và nấm múa (Grifola frondosa).
Có nhiều loại nấm được thu hoạch từ tự nhiên để cho cá nhân hay để bán như nấm sữa (Lactarius deliciosus), nấm nhăn (nấm bụng dê, Morchella), nấm mồng gà (Cantharellus), nấm cục (Tuber), nấm kèn đồng (Cantharellus) và nấm thông (Boletus edulis), chúng thường đắt tiền và dành cho những người sành ăn. Hái nấm là hoạt động phổ biến ở nhiều vùng của Châu Âu và tây bắc Hoa Kỳ. Tuy nhiên những người đi hái nấm phải rất chú trọng về việc phân biệt nấm ăn và nấm độc. Có nhiều loại nấm đặc biệt độc đối với con người, độc tính của nấm có thể nhẹ và gây ra bệnh tiêu hóa hay dị ứng cũng như ảo giác, nhưng cũng có thể đủ mạnh để gây liệt các cơ quan và chết người. Có khoảng 10.000 loại nấm thịt, trong đó có một nửa là ăn được và 100 loài có độc tố cao[65]. Những loại nấm gây chết người thuộc về các chi Inocybe, Entoloma, Hebetoma, Cortinarius và nổi tiếng nhất là Amanita[73]. Những loài thuộc chi cuối như "thiên thần hủy diệt" A. virosa hay nấm tử thầnA. phalloides là những loại nấm độc chết người thông dụng nhất[74]. Loại nấm moscela giả (Gyromitra esculenta) khi nấu chín là một thức ăn ngon, nhưng lại độc khi ăn sống[75]. Nấm Tricholoma equestre đã từng được cho là ăn được cho đến khi nó bị phát hiện là gây ra bệnh Rhabdomyolysis (hủy hoại cơ bắp)[76].
Nấm màu đỏ Amanita muscaria gây độc không thường xuyên, khi ăn vào nó có thể trở thành loại thuốc kích thích và sinh ảo giác. Trong lịch sử, những tu sĩ cổ đại người Celt ở Bắc Âu và người Koryak ở Siberi đã sử dụng loại nấm này với mục đích tôn giáo và làm phép[77]. Cũng có nhiều loài nấm gây ảo giác khác, chúng được gọi là "nấm ma thuật", "mush" hoặc "shroom", thuộc nhiều chi khác nhau như Psilocybe, Panaeolus, Gymnopilus, Copelandia, Conocybe... Chúng có thể tác động lên trí tuệ và hành vi của con người, tạo cảm giác hư ảo hưng phấn, và cũng có vai trò trong việc chữa trị truyền thống ở một số địa phương.
Để phân biệt được nấm ăn được và nấm độc thì có nhiều kinh nghiệm cùng với các cơ sở nghiên cứu: không ăn nấm sặc sỡ, có mùi hắc, không ăn nấm quá non hay quá già, không ăn nấm có chảy sữa...[78] Tuy nhiên có rất nhiều trường hợp ngoại lệ, như có nấm độc có màu sắc và hình dạng giống nấm thường[79]. Vì thế rất khó để có thể nhận biết được nấm an toàn và nấm độc nếu không có đủ kinh nghiệm và kiến thức, và lời khuyên tốt nhất là hãy coi tất cả nấm ở trong rừng là nấm độc và bỏ qua nó.
Dược liệu và chiết xuất
Nhiều loại nấm ăn đã được sử dụng trong y học truyền thống hàng ngàn năm nay. Những loại nấm như nấm múa, nấm hương (đông cô), nấm chaga, nấm linh chi... đã được tập trung nghiên cứu bởi khả năng chống ung thư, chống virus và tăng cường hệ miễn dịch của chúng. Loài nấm Đông trùng hạ thảo (Cordyceps sinensis) được coi là một dược liệu quý hiếm và đã được sử dụng ở Trung Quốc từ lâu [80]. Loài nấm cổ linh chi (Ganoderma applanatum) cũng từng được coi là một "thần dược" ở Việt Nam, mặc dù không có bằng chứng cụ thể nào về khả năng trị bệnh của nó [81]. Psilocybin và LSD, những chất gây ảo giác được chiết xuất từ nấm, có thể dùng để chữa các bệnh về tâm thần, như chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD)[82][83], và cũng được dùng (với lượng nhỏ) để chấp dứt những cơn nhức đầu hàng loạt (cluster headache) hay đau nửa đầu[84]. LSD mạnh gấp 100 lần psilocybin [85], được tổng hợp vào năm 1938, và là một loại ma túy quen thuộc.
Thuật ngữ phục hồi sinh học bằng nấm (mycorestoration) đã được nhà nấm học Paul Stamets sử dụng trong cuốn sách Mycelium Running: How Mushrooms Can Help Save the World (Ten Speed Press, 2005) [94], trong đó ông nêu 4 dạng: lọc sinh học bằng nấm (mycofiltration), lâm nghiệp bằng nấm (mycoforestry), cải tạo sinh học bằng nấm (mycoremediation) và thuốc trừ sâu bằng nấm (mycopesticide)[95]. Về nấm được dùng làm thuốc trừ sâu sinh học, có thể xem ở điều khiển sinh học bằng nấm.
Những loài nấm sống trong cây thuộc chi Neotyphodium như N. coenophialum tiết ra các ancaloit có độc tính với các loài động vật ăn thực vật có xương sống hay không xương sống, mặc dù một số chất có thể độc với những loài gia súc như cừu [107]. Đặc tính của các loại nấm này đã được sử dụng trong các chương trình gây giống cây, nhằm tăng khả năng chống chịu và phòng ngự của cây trồng với các loài ăn thực vật[108].
Kẻ phá hoại
Mặc dù có rất nhiều lợi ích, nhưng nấm cũng có không ít tác hại. Ngoài mầm bệnh và chất độc, nấm còn có thể là những kẻ phá hoại ghê gớm. Dưới điều kiện độ ẩm thích hợp, nấm mốc sẽ phát triển và sinh sôi trong các căn nhà. Chúng tiết ra các enzym và acid để phân huỷ các chất hữu cơ, do đó nên chúng có thể phá hoại áo quần, tranh vẽ, phim ảnh, đồ da, sáp, chất cách điện trên dây điện hoặc dây cáp, các chất phủ máy ảnh, máy quay phim và cả chất khởi động máy bay[27]. Chúng là nguyên nhân phổ biến gây thối rữa thức ăn dự trữ, tạo ra những sản phẩm độc hại cho con người và làm suy giảm chất lượng không khí trong nhà. Người ta ước tính có khoảng 40% gia đình ở Mỹ có vấn đề với nấm mốc[109].
Bởi tính năng phân giải cellulose và lignin, nên nhiều loại nấm có thể phá huỷ hay làm mục gỗ ở nhà cửa và công trình xây dựng, gây thiệt hại lớn về kinh tế hàng năm. Có ba dạng nấm làm mục gỗ chính: mục khô (dry rot), mục ẩm (wet rot) và mục mềm (soft rot)[110] dựa theo đặc điểm của gỗ bị mục. Ngoài ra còn có mục nâu (brown rot) - chuyên tấn công và phá hủy các loại quả hạch, như đào, lê, táo, mận[111] - và mục trắng (white rot), dựa theo màu sắc gỗ mục. Những loài nấm phá huỷ gỗ phổ biến nhất là Serpula lacrymans, Coniophora putana, chi Antrodia, Phellinus Contiguous, chi Asterostroma...[110] Để nhằm ngăn chặn quá trình này, một trong số các phương pháp là sử dụng điều khiển sinh học như dùng thông Pinus radiata hay kể cả loại nấm như Phlebiopsis gigantea[112].
Nguồn gốc và phân loại
Trong một thời gian dài, các nhà phân loại học đã xếp nấm là thành viên của giới Thực vật. Sự phân loại này chủ yếu được dựa trên sự tương đồng trong cách sống giữa nấm và thực vật: cả nấm và thực vật chủ yếu đều không di động, hình thái và môi trường sống có nhiều điểm giống nhau (nhiều loài phát triển trên đất, một số loại nấm quả thể giống thực vật như rêu). Thêm nữa, cả hai đều có thành tế bào, điều mà giới Động vật không có. Tuy nhiên, hiện nay nấm lại được công nhận là một giới riêng biệt, khác biệt hẳn với thực vật hay động vật, chúng đã tách ra và xuất hiện xấp xỉ hơn một tỷ năm trước[113]. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra những sự giống và khác về đặc điểm hình thái, sinh hóa và di truyền giữa Nấm và các giới khác. Vì những lý do đó, nấm đã được đặt vào giới riêng của mình.
Những cơ thể đầu tiên mang những đặc trưng của nấm xuất hiện vào khoảng 1200 triệu năm (Ma) trước đây, ở Liên đại Nguyên Sinh[115]. Tuy nhiên, những hóa thạch nấm thì không phổ biến cho đến đầu kỷ Devon, khi chúng xuất hiện ở đá Rhynie[116].
Cho dù được xếp cùng với thực vật trước kia, nhưng hiện nay nấm được cho là có quan hệ gần gũi với động vật hơn thực vật, và chúng cùng động vật được xếp vào thành các nhánh của Opisthokonta[117]. Ở Đại Cổ Sinh, nấm xuất hiện trong môi trường nước nước, bao gồm những sinh vật tương tự có mang tiên mao (flagella) tương tự như nấm Chytrid[118]. Những ghi nhận về hóa thạch đầu tiên của nấm rất rời rạc và ít ỏi. Những loài nấm bắt đầu xâm lấn mặt đất trong kỷ Cambri, một thời gian dài trước thực vật[116]. Những lớp nấm hiện đại xuất hiện ở cuối kỷ Than Đá (phân kỷ Pennsylvania)[119]. "Fungal spike", một cum từ được đặt ra bởi các nhà cổ sinh vật học, để nói lên sự phong phú của bào tử nấm trong những trầm tích được tạo ra ngay sau sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-Trias; người ta cho rằng nấm là những dạng sống chủ yếu trong thời kỳ này - khi chúng chiếm đến gần 100% các dữ liệu hóa thạch được tìm thấy [120]. Tuy nhiên thuật ngữ này đã gây ra nhiều tranh cãi: hình dạng của những bào tử nấm (như Reduviasporonites) đôi khi lại tương đồng với bào tử tảo và rất khó để xác định[121], "spike" không xuất hiện trên toàn cầu[122][123] và ở nhiều nơi nó lại không rơi vào giai đoạn Permi-Trias[124].
Những nghiên cứu sử dụng phát sinh loài phân tử củng cố nguồn gốc đơn ngành (monophyletic) của giới Nấm[12]. Hệ thống phân loại nấm thường xuyên thay đổi, đặc biệt bởi những nghiên cứu gần đây dựa trên sự đối chiếu DNA. Những phân tích phát sinh chủng loài hiện hành thường xuyên đánh đổ những hệ thống phân loại mà dựa trên những cách thức cũ và đôi khi kém rõ ràng, ví dụ như dựa trên đặc điểm hình thái và khái niệm loài sinh vật thu được từ những giao phối thực nghiệm[125][126].
Không có bất cứ một hệ thống phân loại nấm ở bậc cao duy nhất nào được công nhận, và những tên gọi thường thay đổi ở mọi cấp độ, kể từ loài trở đi. Dù vậy, những nỗ lực của những nhà nghiên cứu nấm đang được thực hiện để có thể thiết lập và khuyến khích việc sử dụng một danh pháp ổn định và duy nhất[12]. Những loài nấm có thể có nhiều tên khoa học dựa trên vòng đời và phương thức sinh sản. Những trang web như Index Fungorum và ITIS thường xuyên cập nhật những tên gọi mới nhất lẫn tham khảo những tên gọi cũ, nhưng lại không phải lúc nào cũng thống nhất với nhau.
Các ngành chính của nấm được phân loại chủ yếu dựa trên cấu trúc cơ quan sinh sản hữu tính của chúng. Hiện tại nấm được chia làm 7 ngành:
Ngành Chytridiomycota hay Chytrid (Nấm roi - nấm trứng): chúng tồn tại rải rác khắp nới trên thế giới. Chytrid sẽ sản sinh ra những bào tử động mà có khả năng di chuyển linh động trong môi trường nước với một tiên mao duy nhất. Vì thế một số nhà phân loại học đã phân loại chúng là những động vật nguyên sinh. Sự phát sinh loài phân tử, dựa trên chuỗi operonrRNA tương ứng ở những tiểu đơn vị ribosome 18S, 28S và 5.8S, cho thấy rằng Chytrid là nhóm nấm căn bản tách ra từ những ngành nấm khác, bao gồm cả bốn ngành chính với những dấu hiệu cho thấy tính cận ngành (paraphyly) hoặc có thể cận ngành của nấm Chytrid[127].
Ngành Blastocladiomycota trước đây từng được cho là một nhánh phân loại của Chytridiomycota. Những dữ liệu phân tử và đặc điểm siêu cấu trúc gần đây đã đưa Blastocladiomycota vào một nhánh riêng giống như với các ngành Zygomycota, Glomeromycota và Dikarya. Lớp nấm Blastocladiomycetes là những sinh vật hoại sinh hoặc ký sinh của tất cả các nhóm sinh vật nhân chuẩn và chúng giảm phân tạo bào tử, không giống với chytrid, họ hàng gần của chúng, là những loài chủ yếu giảm phân tạo hợp tử[118].
Ngành Neocallimastigomycota đầu tiên cũng đặt vào ngành Chytridiomycota. Những thành viên của ngành nhỏ này là những sinh vật kỵ khí, sống trong hệ thống tiêu hóa của những động vật ăn cỏ lớn và cũng có thể sống ở môi trường nước và mặt đất. Chúng không có ty thể nhưng lại chứa những hydrogenosome là nguồn gốc của ty thể. Giống như chytrid, neocallimastigomycetes có thể tạo ra những bào tử động mà có một hay nhiều tiên mao ở phía sau[12].
Những thành viên của ngành Glomeromycota là những nấm tạo ra nấm rễ mút phân nhánh (arbuscular mycorrhizae) ở thực vật bậc cao. Sự cộng sinh này đã có từ cổ đại, với những bằng chứng cho thấy đã có từ 400 triệu năm về trước[24].
Phân giới Dikarya bao gồm hai ngành Ascomycota và Basidiomycota khi cả hai ngành đều có nhân kép, chúng có thể dạng sợi hoặc đơn bào, nhưng không bao giờ có lông roi. Dikarya được gọi là "Nấm bậc cao", cho dù có nhiều loài sinh sản vô tính được phân loại vào nấm mốc trong các tài liệu trước đây[12]. Deuteromycota (Nấm bất toàn), trước đây từng được coi là một ngành của Nấm, nhưng hiên nay chỉ được sử dụng để chỉ những loại nấm sinh sản vô tính trong Dikarya.
Ngành Ascomycota (nấm túi hay nấm nang), là nhóm phân loại đông nhất trong Eumycota (Nấm thật). Chúng tạo ra những bào tử giảm phân gọi là bào tử nang, mà được chứa trong một cấu trúc đặc biệt có dạng giống túi gọi là nang (ascus). Ngành này bao gồm nấm nhăn (moscela), vài loại nấm lớn và nấm cục, những nấm men đơn bào (như các chi Saccharomyces, Kluyveromyces, Pichia và Candida) và nhiều nấm sợi sống hoại sinh, ký sinh và cộng sinh. Nhiều loài nấm nang chỉ trải qua quá trình sinh sản vô tính (ở nấm gọi là anamorph), tuy nhiên, những dữ liệu phân tử đã giúp nhận dạng được những giai đoạn hữu tính (teleomorph) gần nhất của chúng ở nấm nang. Bởi những sản phẩm của quá trình giảm phân được chứa trong nang nấm, nên vài loài nấm nang (như Neurospora crassa) được sử dụng để giải thích những nguyên lý của di truyền học.
Bởi vì có những sự tương đồng giữa hình thái và vòng đời, nên nấm nhầy (myxomycetes) và mốc nước (oomycetes) trước đây đã được đặt vào giới Nấm. Tuy nhiên, không giống nấm thật (Eumycota), thành tế bào của những sinh vật này có chứa cellulose và thiếu kitin. Nấm nhầy cũng là Unikont giống như nấm, nhưng lại thuộc giới Amoebozoa. Mốc nước là những Bikontlưỡng bội thuộc giới Chromalveolate. Cả mốc nước và nấm nhầy đều không có quan hệ gần gũi với nấm thật và vì thế những nhà phân loại học hiện nay đã không xếp chúng vào giới Nấm. Dù vậy, ngành học nghiên cứu về myxomycete và oomycete vẫn thường được xếp nào nấm học trong những sách giáo khoa và tài liệu nghiên cứu sơ cấp.
Trước đây đã có giả thuyết cho rằng Nucleariid có thể là nhánh chị em với mốc nước, và vì thế cho rằng có thể thuộc giới Nấm[129]. Tuy nhiên, hiện tại thì Nucleariid vẫn đang nằm trong giới Choanozoa.
^Moore RT. (1980). “Taxonomic proposals for the classification of marine yeasts and other yeast-like fungi including the smuts”. Botanica Marine. 23: 361–373.
^The classification system presented here is based on the 2007 phylogenetic study by Hibbett.
^Vaupotic T, Veranic P, Jenoe P, Plemenitas A. (2008). “Mitochondrial mediation of environmental osmolytes discrimination during osmoadaptation in the extremely halotolerant black yeast Hortaea werneckii”. Fungal Genetics and Biology. 45 (6): 994–1007. doi:10.1016/j.fgb.2008.01.006. ISSN1087-1845. PMID18343697.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Raghukumar C, Raghukumar S. (1998). “Barotolerance of fungi isolated from deep-sea sediments of the Indian Ocean”. Aquatic Microbial Ecology. 15 (2): 153–163. doi:10.3354/ame015153.
^Hawksworth DL (2006). “The fungal dimension of biodiversity: magnitude, significance, and conservation”. Mycol. Res. 95: 641–655.
^This estimation is determined by combining the species count for each phyla, based on values obtained from the 10th edition of the Dictionary of the Fungi (Kirk., 2008): Ascomycota, 64163 species (p. 55); Basidiomycota, 31515 (p. 78); Blastocladiomycota, 179 (p. 94); Chytridiomycota, 706 (p. 142); Glomeromycota, 169 (p. 287); Microsporidia, >1300 (p. 427); Neocallimastigomycota, 20 (p. 463).
^Mueller G.M., Schmit J.P. (2006). “Fungal biodiversity: what do we know? What can we predict?”. Biodivers Conserv. 16: 1–5. doi:10.1007/s10531-006-9117-7.
^Lindahl B.D., Ihrmark K., Boberg J., Trumbore S.E., Högberg P., Stenlid J., Finlay R.D. (2007). “Spatial separation of litter decomposition and mycorrhizal nitrogen uptake in a boreal forest”. New Phytol. 173: 611–620. doi:10.1111/j.1469-8137.2006.01936.x. PMID17244056.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Aanen D.K. (2006). “As you reap, so shall you sow: coupling of harvesting and inoculating stabilizes the mutualism between termites and fungi”. Biol Lett. 2: 209–212. doi:10.1098/rsbl.2005.0424. PMID17148364.
^Nikoh N., Fukatsu T. (2000). “Interkingdom host jumping underground: phylogenetic analysis of entomoparasitic fungi of the genus Cordyceps”. Mol Biol Evol. 17: 2629–2638. PMID10742053.
^Arnold A.E., Mejía L.C., Kyllo D., Rojas E.I., Maynard Z., Robbins N., Herre E.A. (2003). “Fungal endophytes limit pathogen damage in a tropical tree”. Proc. Natl. Acad. Sci. USA. 100: 15649–15654. doi:10.1073/pnas.2533483100. PMID14671327.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^ abPaszkowski U. (2006). “Mutualism and parasitism: the yin and yang of plant symbioses”. Curr Opin Plant Biol. 9: 364–370. doi:10.1016/j.pbi.2006.05.008. PMID16713732.
^ abHube B. (2004). “From commensal to pathogen: stage- and tissue-specific gene expression of Candida albicans”. Curr Opin Microbiol. 7: 336–341. doi:10.1016/j.mib.2004.06.003. PMID15288621.
^ abRemy W., Taylor T.N., Hass H., Kerp H. (1994). “4-hundred million year old vesicular-arbuscular mycorrhizae”. Proc. Natl. Acad. Sci. 91: 11841–11843. doi:10.1073/pnas.91.25.11841. PMID11607500.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^van der Heijden M.G., Streitwolf-Engel R., Riedl R., Siegrist S., Neudecker A., Ineichen K., Boller T., Wiemken A., Sanders I.R. (2006). “The mycorrhizal contribution to plant productivity, plant nutrition and soil structure in experimental grassland”. New Phytol. 172: 739–752. doi:10.1111/j.1469-8137.2006.01862.x. PMID17096799.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Selosse M.A., Richard F., He X., Simard S.W. (2006). “Mycorrhizal networks: des liaisons dangereuses?”. Trends Ecol Evol. 21: 621–628. doi:10.1016/j.tree.2006.07.003. PMID16843567.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^ abcdW.D.Phillips & T.J. Chilton (1991). “52”. Sinh học (A. Level Biology). 2. Việt Nam: Nhà xuất bản Giáo dục. tr. 217–228. ISBN9780199140893.
^Paoletti M., Buck K.W., Brasier C.M. (2006). “Selective acquisition of novel mating type and vegetative incompatibility genes via interspecies gene transfer in the globally invading eukaryote Ophiostoma novo-ulmi”. Mol Ecol. 15: 249–262. doi:10.1111/j.1365-294X.2005.02728.x. PMID16367844.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Gryzenhout M., Wingfield B.D., Wingfield M.J. (2006). “New taxonomic concepts for the important forest pathogen Cryphonectria parasitica and related fungi”. FEMS Microbiol Lett. 258: 161–172. doi:10.1111/j.1574-6968.2006.00170.x. PMID16640568.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Brakhage A.A. (2005). “Systemic fungal infections caused by Aspergillus species: epidemiology, infection process and virulence determinants”. Curr. Drug Targets. 6: 875–886. doi:10.2174/138945005774912717. PMID16375671.
^Kauffman C.A. (2007). “Histoplasmosis: a clinical and laboratory update”. Clin Microbiol Rev. 20: 115–132. doi:10.1128/CMR.00027-06. PMID17223625.
^Cushion M.T., Smulian A.G., Slaven B.E., Sesterhenn T., Arnold J., Staben C., Porollo A., Adamczak R., Meller J. (2007). “Transcriptome of Pneumocystis carinii during Fulminate Infection: Carbohydrate Metabolism and the Concept of a Compatible Parasite”. PLoS ONE. 2: e423. doi:10.1371/journal.pone.0000423. PMID17487271.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Howard E. Gendelman, Igor Grant, Ian P. Everall, Stuart A. Lipton, Susan Swindells (2005). The Neurology of AIDS. Oxford University Press. tr. 503. ISBN0198526105.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Michael Breitenbach, Reto Crameri, Samuel B. Lehrer (2002). Fungal Allergy and Pathogenicity. Karger Publishers. ISBN380557391X.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^ abJohn H. Krouse, Stephen J. Chadwick, Bruce R. Gordon, M. Jennifer Derebery (2001). Allergy and Immunology: An Otolaryngic Approach. Lippincott Williams & Wilkins. tr. 43–46. ISBN078172628X.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^William Briner, American College of Sports Medicine (2006). Action Plan for Allergies. Human Kinetics. tr. 150–154. ISBN0736062793.
^ abcNguyễn Lân Dũng (ngày 11 tháng 6 năm 2006). “Vi nấm (Microfungi)”. Chương trình Vi sinh vật. Vietsciences. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2008. Đã định rõ hơn một tham số trong author-name-list parameters (trợ giúp)
^Leslie, Anne R. (1994). Handbook of Integrated Pest Management for Turf and Ornamentals. CRC Press. tr. 495–497. ISBN0873713508, 9780873713504 Kiểm tra giá trị |isbn=: ký tự không hợp lệ (trợ giúp).
^Decker, Heinz (1989). Plant nematodes and their control (phytonematology). BRILL. tr. 114–115. ISBN9004089225, 9789004089228 Kiểm tra giá trị |isbn=: ký tự không hợp lệ (trợ giúp).
^Maurice Langeron & R. Vanbreuseghem (1965). Outline of Mycology. C.C. Thomas. tr. 109.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
^Pereira J.L., Noronha E.F., Miller R.N., Franco O.L. (2007). “Novel insights in the use of hydrolytic enzymes secreted by fungi with biotechnological potential”. Lett Appl Microbiol. 44: 573–581. doi:10.1111/j.1472-765X.2007.02151.x. PMID17576216.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Schaller M., Borelli C., Korting H.C., Hube B. (2007). “Hydrolytic enzymes as virulence factors of Candida albicans”. Mycoses. 48: 365–377. doi:10.1111/j.1439-0507.2005.01165.x. PMID16262871.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^ abDadachova E., Bryan R.A., Huang X., Moadel T., Schweitzer A.D., Aisen P., Nosanchuk J.D., Casadevall A. (2007). “Ionizing radiation changes the electronic properties of
melanin and enhances the growth of melanized fungi”. PLoS ONE. 2: e457. doi:10.1371/journal.pone.0000457. PMID17520016. line feed character trong |title= tại ký tự số 56 (trợ giúp)Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Kulp, Karel (2000). Handbook of Cereal Science and Technology. CRC Press. ISBN0824782941.
^Hickling, S., Hung, J., Knuiman, M., Jamrozik, K., McQuillan, B., Beilby, J., Thompson, P. (2005). “Impact of voluntary folate fortification on plasma homocysteine and serum folate in Australia from 1995 to 2001: a population based cohort study”. Journal of Epidemiology & Community Health. 59: 371–376.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Kitamoto N., Yoshino S., Ohmiya K., Tsukagoshi N. (1999). “Sequence analysis, overexpression, and antisense inhibition of a beta-xylosidase gene, xylA, from Aspergillus oryzae KBN616”. Appl. Env. Microbiol. 65: 20–24. PMID9872754.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Dilip K. Arora & George G. Khachatourians, ScienceDirect (2003). Applied Mycology and Biotechnology. Elsevier. tr. 134. ISBN0444510303.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
^ abcdDilip K. Arora & P. D. Bridge, Deepak Bhatnagar (2004). Fungal Biotechnology in Agricultural, Food, and Environmental. CRC Press. tr. 228–235. ISBN0824747704.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
^Nguyễn Lân Dũng, Dương Văn Hợp, Phạm Thế Hải (ngày 3 tháng 10 năm 2005). “Thần dược Đông Trùng Hạ Thảo”. Vietsciences. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2008. Chú thích có tham số trống không rõ: |accessmonthday= (trợ giúp)Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Francisco A. Moreno, Pedro Delgado, Alan J. Gelenberg. “Effects of Psilocybin in Obsessive-Compulsive Disorder” (bằng tiếng Anh). MAPS. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2008. Chú thích có tham số trống không rõ: |accessmonthday= (trợ giúp)Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^ abOliver Zerbe, Raimund Mannhold, Hugo Kubinyi, Gerd Folkers (2006). BioNMR in Drug Research. Wiley-VCH. tr. 22–24. ISBN3527605428.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Zhiqiang An (2004). Handbook of Industrial Mycology. CRC Press. tr. 667–688. ISBN082475655X.
^Margaret A. Powers (1996). Handbook of Diabetes Medical Nutrition Therapy. Jones & Bartlett Publishers. tr. 81. ISBN0834206315.
^Douglas, Michael S., 17/4/1995. [1]Lưu trữ 2012-01-19 tại Wayback Machine Bioremediation of Contaminated Soils Using the White Rot Fungus Phanerochaete Chrysosporium. DTIC.
^López-Gómez J, Molina-Meyer M (2006). “The competitive exclusion principle versus biodiversity through competitive segregation and further adaptation to spatial heterogeneities”. Theor Popul Biol. 69: 94–109. doi:10.1016/j.tpb.2005.08.004. PMID16223517.
^[2]Lưu trữ 2011-12-29 tại Wayback Machine Whey-based fungal microfactory technology for enhanced biological pest management using fungi Todd. S. Keiller, Technology Transfer, University of Vermont. Truy cập 12-08-2008.
^Deshpande MV. (1999). “Mycopesticide production by fermentation: potential and challenges”. Crit Rev Microbiol. 25: 229–243. doi:10.1080/10408419991299220. PMID10524330.
^Niemeier, R. Todd, Sivasubramani, Satheesh K., Reponen, Tiina and Grinshpun, Sergey A., (2006) "Assessment of Fungal Contamination in Moldy Homes: Comparison of Different Methods", Journal of Occupational and Environmental Hygiene, 3:5, 262-273 [1]
^ abR. O. Heckroodt (2002). Guide to the Deterioration and Failure of Building Materials. Thomas Telford. tr. 88–94. ISBN0727731726.
^Brown Rot of Stone Fruits, Michael A. Ellis, Ohio State University Extension Fact Sheet. Truy cập 13-08-2008.
^P. Sitte, H. Ziegler, F. Ehrendorfer (1991). Strasburger Lehrbuch der Botanik (Textbook of Botany) (ấn bản thứ 33). Urban & Fischer. ISBN3437204475.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^ abJames TYyear= 2006. “Reconstructing the early evolution of Fungi using a six-gene phylogeny”. Nature. 443: 818–822. doi:10.1038/nature05110. PMID17051209.
^Looy, C.V. (2005). Twitchett, R.J.; Dilcher, D.L.; Van Konijnenburg-van Cittert, J.H.A.; Visscher, H. “Life in the end-Permian dead zone”. Proceedings of the National Academy of Sciences. 162 (4): 653–659. doi:10.1073/pnas.131218098. PMID11427710. See image 2
^Ward PD, Botha J, Buick R, De Kock MO, Erwin DH, Garrison GH, Kirschvink JL & Smith R (2005). “Abrupt and Gradual Extinction Among Late Permian Land Vertebrates in the Karoo Basin, South Africa”. Science. 307 (5710): 709–714. doi:10.1126/science.1107068.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^James TY, Letcher PM, Longcore JE, Mozley-Standridge SE, Porter D, Powell MJ, Griffith GW, Vilgalys R. (2006). “A molecular phylogeny of the flagellated fungi (Chytridiomycota) and description of a new phylum (Blastocladiomycota)”. Mycologia. 98: 860–871. doi:10.3852/mycologia.98.6.860. PMID17486963.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^White MM, James TY, O'Donnell K, Cafaro MJ, Tanabe Y, Sugiyama J. (2006). “Phylogeny of the Zygomycota based on nuclear ribosomal sequence data”. Mycologia. 98: 872–884. doi:10.3852/mycologia.98.6.872. PMID17486964.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
Artikel ini tidak memiliki referensi atau sumber tepercaya sehingga isinya tidak bisa dipastikan. Tolong bantu perbaiki artikel ini dengan menambahkan referensi yang layak. Tulisan tanpa sumber dapat dipertanyakan dan dihapus sewaktu-waktu.Cari sumber: Gempar Soekarnoputra – berita · surat kabar · buku · cendekiawan · JSTORTopik artikel ini mungkin tidak memenuhi kriteria kelayakan umum. Harap penuhi kelayakan artikel dengan: menyertakan sumber-sumber ...
Peta lokasi Kabupaten Lumajang Berikut adalah daftar kecamatan dan kelurahan/desa di Kabupaten Lumajang, Provinsi Jawa Timur, Indonesia dengan kode wilayah administrasi 35.08. Kabupaten Lumajang terdiri dari 21 kecamatan, 7 kelurahan, dan 198 desa. Pada tahun 2017, jumlah penduduknya mencapai 1.108.060 jiwa dengan luas wilayah 1.790,90 km² dan sebaran penduduk 618 jiwa/km².[1][2] Daftar kecamatan dan kelurahan di Kabupaten Lumajang, adalah sebagai berikut: Kode Kemendagri Ke...
Adelbert von ChamissoLahirLouis Charles Adélaïde de Chamissot(1781-01-30)30 Januari 1781Ante, Champagne, Kerajaan PrancisMeninggal21 Agustus 1838(1838-08-21) (umur 57)Berlin, Provinsi Brandenburg, Kerajaan PrusiaPekerjaanPenulisKebangsaanJermanGenrePuisi, novella Adelbert von Chamisso (pelafalan dalam bahasa Jerman: [ˈaːdl̩bɛʁt fɔn ʃaˈmɪso]; 30 Januari 1781 – 21 Agustus 1838) adalah seorang penyair dan botanis Jerman, penulis dari Peter Schlemihl, sebua...
Cet article concerne l'Europe de l'Est dans sa conception géographique et culturelle. Pour les régimes communistes d’Europe placés sous le contrôle plus ou moins direct de l’Union soviétique, voir Bloc de l'Est. Europe de l'Est L'Europe de l'Est et ses contours flous à l'ouest. Pays Restrictivement : Biélorussie Russie Ukraine Population environ 165 millions d'hab. Superficie environ 4,8 millions de km2 Principales langues russe, ukrainien, biélorusse Point cul...
Documentary film festival organization This article has multiple issues. Please help improve it or discuss these issues on the talk page. (Learn how and when to remove these template messages) This article relies excessively on references to primary sources. Please improve this article by adding secondary or tertiary sources. Find sources: Doc Alliance – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (August 2019) (Learn how and when to remove this templa...
Titular owner of the estates of the Duchy of Lancaster and head of the County Palatine of Lancaster This article is about the title. For the ships, see Duke of Lancaster (ship). For the regiment of the British Army, see Duke of Lancaster's Regiment. For the estate, see Duchy of Lancaster. Dukedom of LancasterArms of Henry of Grosmont: the arms of his grandfather Edmund Crouchback (arms of King Henry III, a label France of three points)Creation date1351 (first creation)1362 (second creation)13...
This article needs additional citations for verification. Please help improve this article by adding citations to reliable sources. Unsourced material may be challenged and removed.Find sources: Football in North Macedonia – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (October 2022) (Learn how and when to remove this template message) Football in North MacedoniaThe Toše Proeski Arena in Skopje is the home of the North Macedonia national football teamC...
Brodmann area 6DetailsIdentifiersLatinarea frontalis agranularisNeuroNames1020NeuroLex IDbirnlex_1737FMA68602Anatomical terms of neuroanatomy[edit on Wikidata] Brodmann area 6 (BA6) is part of the frontal cortex in the human brain. Situated just anterior to the primary motor cortex (BA4), it is composed of the premotor cortex and, medially, the supplementary motor area (SMA). This large area of the frontal cortex is believed to play a role in planning complex, coordinated movements. Brodm...
Manga by Osamu Tezuka For the Naoyuki Ochiai manga, see Crime and Punishment: A Falsified Romance. Crime and PunishmentThe cover for the Japan Times' dual-language publication of Crime & Punishment.罪と罰(Tsumi To Batsu)GenreDrama MangaWritten byOsamu TezukaPublished byTokodoEnglish publisherUS: Digital MangaEnglish magazineStudent TimesDemographicShōnenPublishedNovember 5, 1953Volumes1 Crime and Punishment (Japanese: 罪と罰, Hepburn: Tsumi To Batsu) is a manga by Osamu T...
Kedutaan Besar Republik Indonesia di TripoliKoordinat32°50′20″N 13°04′56″E / 32.83879°N 13.08217°E / 32.83879; 13.08217Lokasi Tripoli, LibyaAlamatHay Al Karamah, Qobri Taariq Al Sari', Amaama Al SaraajTripoli, LibyaDuta BesarMoehammad Amar Ma'ruf (Kuasa Usaha Ad Interim)Yurisdiksi LibyaSitus webkemlu.go.id/tripoli/id Kedutaan Besar Republik Indonesia di Tripoli (KBRI Tripoli) adalah misi diplomatik Republik Indonesia untuk Libya.[1] Daftar duta...
Israel Geografi Tanah Israel DistrikKotaTransportasi Laut MerahLaut Tengah Danau GalileaLaut Mati YerusalemTel AvivHaifa Sejarah Sejarah Yahudi (garis waktu) ZionismeAliyahTheodor Herzl Deklarasi BalfourMandat Palestina Rencana Pembagian Palestina Deklarasi Pengetatan anggaran Konflik Konflik Arab–IsraelKonflik Israel–PalestinaKonflik proksi Iran–Israel Perang 1948Gencatan Senjata 1949 Perjanjian damai dengan Mesirdengan YordaniaProses perdamaian dalam konflik Israel–Palestina Hukum ...
Australian actress (born 2000) Milly AlcockAlcock in 2022BornAmelia Alcock (2000-04-11) 11 April 2000 (age 24)Sydney, New South Wales, AustraliaOccupationActressYears active2013–present Amelia Milly Alcock (born 11 April 2000) is an Australian actress. She received an AACTA Award nomination for her performance in the Foxtel comedy-drama Upright (2019–2022). She gained wider recognition for starring as young Rhaenyra Targaryen in the HBO fantasy series House of the Dragon (2022)....
Gli FBK Games 2019 sono stati la 58ª edizione dell'annuale meeting di atletica leggera; le competizioni hanno avuto luogo al Fanny Blankers-Koen Stadion di Hengelo, il 9 giugno 2019. Il meeting è stato la quarta tappa del circuito IAAF World Challenge 2019. Indice 1 Risultati [1] 1.1 Uomini 1.2 Donne 2 Note 3 Altri progetti Risultati [1] Uomini Specialità Prestazione 2º classificato Prestazione 3º classificato Prestazione 100 m Arthur Cissé 1005 Chijindu Ujah 1013 Tyquendo Trace...
Trains: in Japan Template‑class Trains Portal This template is within the scope of WikiProject Trains, an attempt to build a comprehensive and detailed guide to rail transport on Wikipedia. If you would like to participate, you can visit the project page, where you can join the project and/or contribute to the discussion. See also: WikiProject Trains to do list and the Trains Portal.TrainsWikipedia:WikiProject TrainsTemplate:WikiProject Trainsrail transport articlesTemplateThis template do...
School district in Warren County, New Jersey, US Hope Township School DistrictAddress320 Johnsonburg Road Hope Township, Warren County, New Jersey, 07844United StatesCoordinates40°54′40″N 74°58′04″W / 40.911171°N 74.967796°W / 40.911171; -74.967796District informationGradesPreK to 8SuperintendentKevin NewmanBusiness administratorAndrew ItalianoSchools1Students and staffEnrollment131 (as of 2022–23)[1]Faculty18.8 FTEs[1]Student–teacher ra...
Faber in un'incisione di Joseph Brown Frederick William Faber (Calverley, 26 settembre 1814 – Londra, 26 settembre 1863) è stato un teologo, scrittore e religioso britannico, appartenente alla Confederazione dell'oratorio di San Filippo Neri, convertito dall'anglicanesimo al cattolicesimo. Indice 1 Biografia 1.1 Giovinezza 1.2 Parroco anglicano 1.3 Prete cattolico 1.4 L'Oratorio 1.5 Gli ultimi anni 2 Opere 2.1 Inni 2.2 Altre opere 3 Note 4 Bibliografia 5 Voci correlate 6 Altri progetti 7 C...
UK television weather forecast ITV WeatherCompany typeTV weather forecastsGenreUK weatherFounded13 February 1989 (1989-02-13)FounderITV NetworkHeadquartersMillbank, central London, EnglandArea servedUnited KingdomKey peopleManali Lukha(Head of Weather)ParentITN, Met OfficeDivisionsITV Regional WeatherWebsiteitv.com/weather ITV Weather is the national and regional forecast shown on UK terrestrial network ITV, and is provided by the Met Office (except the Channel Islands forecast...